Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chuyển gen”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Tác giả đầu tiên của trang "Chuyển gen"
 
Biên soạn tiếp có bổ sung hình.
Dòng 1: Dòng 1:
{{short description|Introduction of foreign genetic material into host cells}}
[[Tập tin:Artificial Bacterial Transformation.svg|nhỏ|Sơ đồ mô tả cách chuyển gen qua [[biến nạp]].
[[Tập tin:Artificial Bacterial Transformation.svg|nhỏ|Sơ đồ mô tả cách chuyển gen qua [[biến nạp]].


Dòng 8: Dòng 7:
3) Vi khuẩn biến đổi gen đã nhận gen chống thuốc.
3) Vi khuẩn biến đổi gen đã nhận gen chống thuốc.


4) Phân lập trong môi trường có kháng sinh, rồi nuôi cấy hàng loạt.
4) Phân lập trong môi trường có kháng sinh, rồi nuôi cấy hàng loạt.]]
'''Chuyển gen''' là quá trình đưa vật chất di truyền ([[DNA|ADN]] hoặc [[RNA|ARN]]) ngoại lai từ tế bào này vào tế bào khác.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.nature.com/subjects/gene-delivery|title=Gene delivery|last=|first=|date=|website=|archive-url=|archive-date=|dead-url=|access-date=}}</ref><ref>{{cite journal|vauthors=Jones CH, Chen CK, Ravikrishnan A, Rane S, Pfeifer BA|title=Overcoming nonviral gene delivery barriers: perspective and future|journal=Molecular Pharmaceutics|volume=|issue=|pages=|date=November 2013|pmid=|doi=|pmc=|url=|last=|first=|via=}}</ref> Vật chất di truyền này thường là ADN, nhưng có thể là ARN, dưới đây gọi chung là [[gen]].
]]
'''Chuyển gen''' là quá trình nhân tạo để đưa vật chất di truyền từ tế bào này vào tế bào khác.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.nature.com/subjects/gene-delivery|title=Gene delivery|last=|first=|date=|website=|archive-url=|archive-date=|dead-url=|access-date=}}</ref><ref>{{cite journal|vauthors=Jones CH, Chen CK, Ravikrishnan A, Rane S, Pfeifer BA|title=Overcoming nonviral gene delivery barriers: perspective and future|journal=Molecular Pharmaceutics|volume=|issue=|pages=|date=November 2013|pmid=|doi=|pmc=|url=|last=|first=|via=}}</ref> Vật chất di truyền này thường là [[DNA|'''ADN''']], nhưng cũngkhi là [[RNA|ARN]].


Đây là thuật ngữ thuộc lĩnh vực [[Di truyền phân tử|di truyền học phân tử]], trong [[tiếng Anh]] gọi là '''gene delivery''', dùng để chỉ quá trình chuyển gen do con người tiến hành ('''nhân tạo''') dùng trong nghiên cứu [[di truyền học]], [[kỹ thuật di truyền]], [[liệu pháp gen]]. Tế bào cung cấp gen ngoại lai được gọi là '''tế bào cho''' (donor), còn tế bào cần có vật chất di truyền ngoại lai gọi là '''tế bào nhận''' (recipient) cũng gọi là tế bào chủ (host) hay tế bào đích.
"Chuyển gen" là thuật ngữ thuộc lĩnh vực [[Di truyền phân tử|di truyền học phân tử]], từ [[tiếng Anh]] gọi là '''gene delivery''', dùng để chỉ quá trình chuyển gen do con người tiến hành ('''nhân tạo''') để nghiên cứu trong [[di truyền học]], áp dụng ở [[kỹ thuật di truyền]], [[liệu pháp gen]]. Tế bào cung cấp gen ngoại lai được gọi là '''tế bào cho''' (donor), còn tế bào cần có gen ngoại lai gọi là '''tế bào nhận''' (recipient) cũng gọi là tế bào chủ (host) hay tế bào đích.<ref>Campbell và cộng sự: "Sinh học" - [[Nhà xuất bản Giáo dục]], 2010.</ref><ref>"Sinh học 12" - [[Nhà xuất bản Giáo dục]], 2019.</ref>


== Tổng quan ==
Quá trình chuyển gen chỉ được xem là thành công khi vật chất di truyền của tế bào cho đã đến được tế bào chủ, duy trì ổn định trong tế bào chủ và có thể gắn vào bộ gen tế bào chủ hoặc sao chép độc lập với để có [[biểu hiện gen]].<ref name=":2">{{cite journal|vauthors=Kamimura K, Suda T, Zhang G, Liu D|title=Advances in Gene Delivery Systems|journal=Pharmaceutical Medicine|volume=25|issue=5|pages=293–306|date=October 2011|pmid=22200988|doi=10.2165/11594020-000000000-00000|pmc=3245684|doi-broken-date=2019-08-20}}</ref><ref name=":1">{{cite journal|vauthors=Mali S|title=Delivery systems for gene therapy|journal=Indian Journal of Human Genetics|volume=19|issue=1|pages=3–8|date=January 2013|pmid=23901186|pmc=3722627|doi=10.4103/0971-6866.112870}}</ref> Để đạt yêu cầu này, gen ngoại lai phải được thiết kế phù hợp với phương thức chuyển gen (dùng vi tiêm hay dùng [[súng bắn gen]], dùng [[Vector (sinh học phân tử)|vec-tơ]] loại nào) tổng hợp như một phần của vectơ, được thiết kế để vào tế bào chủ mong muốn và chuyển gen chuyển đến bộ gen của tế bào đó


* Quá trình chuyển gen chỉ được xem là thành công khi gen của tế bào cho đã vào được trong tế bào chủ, duy trì ổn định và có thể tích hợp vào bộ gen hoặc sao chép độc lập với bộ gen chủ và có [[biểu hiện gen]].<ref name=":2">{{cite journal|vauthors=Kamimura K, Suda T, Zhang G, Liu D|title=Advances in Gene Delivery Systems|journal=Pharmaceutical Medicine|volume=25|issue=5|pages=293–306|date=October 2011|pmid=22200988|doi=10.2165/11594020-000000000-00000|pmc=3245684|doi-broken-date=2019-08-20}}</ref><ref name=":1">{{cite journal|vauthors=Mali S|title=Delivery systems for gene therapy|journal=Indian Journal of Human Genetics|volume=19|issue=1|pages=3–8|date=January 2013|pmid=23901186|pmc=3722627|doi=10.4103/0971-6866.112870}}</ref> Để đạt yêu cầu này, gen ngoại lai phải được thiết kế phù hợp với phương thức chuyển gen (dùng vi tiêm hay dùng [[súng bắn gen]], dùng [[Vector (sinh học phân tử)|vectơ]] loại nào), tổng hợp như một phần của vectơ, được thiết kế để vào tế bào chủ mong muốn và chuyển đến bộ gen của tế bào đó
Các phương thức chuyển gen có thể là cơ học (như vi tiêm, [[súng bắn gen]]), hóa học (như chất làm dãn màng tế bào nhận, hạt nanô) hoặc sinh học (như dùng ống phấn, nhờ [[tinh trùng]] hoặc [[Vector (sinh học phân tử)|vectơ]] là [[Virus|virut]] hay [[Plasmid|plasmit]]).
* Các phương thức chuyển gen có thể là cơ học (như vi tiêm, [[súng bắn gen]]), hóa học (như chất làm dãn màng tế bào nhận, hạt nanô) hoặc sinh học (như dùng ống phấn, nhờ [[tinh trùng]] hoặc [[Vector (sinh học phân tử)|vectơ]] là [[Virus|virut]] hay [[Plasmid|plasmit]]). Điều này đòi hỏi gen ngoại lai phải được tổng hợp như một phần của vectơ, được thiết kế để đi vào tế bào chủ mong muốn và chuyển gen chuyển đến bộ gen của tế bào đó. Các vectơ được sử dụng làm phương pháp phân phối gen có thể được chia thành hai loại, virut tái tổ hợp và vectơ tổng hợp (virut và không virut).<ref name=":2" /><ref name=":4">{{cite journal|vauthors=Pack DW, Hoffman AS, Pun S, Stayton PS|title=Design and development of polymers for gene delivery|language=En|journal=Nature Reviews. Drug Discovery|volume=4|issue=7|pages=581–93|date=July 2005|pmid=16052241|doi=10.1038/nrd1775}}</ref>

Điều này đòi hỏi DNA ngoại lai phải được tổng hợp như một phần của vectơ, được thiết kế để đi vào tế bào chủ mong muốn chuyển gen chuyển đến bộ gen của tế bào đó. Các vectơ được sử dụng làm phương pháp phân phối gen thể được chia thành hai loại, virut tái tổ hợp vectơ tổng hợp (virut không virut).<ref name=":2" /><ref name=":4">{{cite journal|vauthors=Pack DW, Hoffman AS, Pun S, Stayton PS|title=Design and development of polymers for gene delivery|language=En|journal=Nature Reviews. Drug Discovery|volume=4|issue=7|pages=581–93|date=July 2005|pmid=16052241|doi=10.1038/nrd1775}}</ref>
* Trong sinh vật nhân thực, nhất các sinh vật đa bào sinh sản hữu tính - theo [[lý thuyết dòng mầm]] - nếu gen ngoại lai được kết hợp vào [[tế bào mầm]] của vật chủ, thì tế bào chủ đã nhận gen ngoại lai thể truyền gen sang thế hệ con, cháu của nó. Nếu gen ngoại lai được kết hợp vào [[tế bào xôma]], gen ngoại lai được chuyển chỉ tồn tại dòng tế bào xôma.<ref name=":3">{{cite journal|vauthors=Nayerossadat N, Maedeh T, Ali PA|title=Viral and nonviral delivery systems for gene delivery|journal=Advanced Biomedical Research|volume=1|pages=27|date=6 July 2012|pmid=23210086|pmc=3507026|doi=10.4103/2277-9175.98152}}</ref>
* Kỹ thuật chuyển gen là một bước quyết định trong [[kỹ thuật di truyền]] để tạo ra ADN tái tổ hợp, và trong [[liệu pháp gen]] để gây bất hoạt gen gây bệnh nào đó.<ref>Campbell và cộng sự: "Sinh học" - [[Nhà xuất bản Giáo dục]], 2010.</ref><ref>"Sinh học 12" - [[Nhà xuất bản Giáo dục]], 2019.</ref> Có nhiều phương pháp chuyển gen khác nhau cho các loại tế bào và mô khác nhau.<ref>{{cite journal|vauthors=Nayerossadat N, Maedeh T, Ali PA|title=Viral and nonviral delivery systems for gene delivery|journal=Advanced Biomedical Research|volume=1|issue=1|pages=27|date=2012|pmid=23210086|pmc=3507026|doi=10.4103/2277-9175.98152}}</ref>

Trong sinh vật nhân thực, nhất là các sinh vật đa bào sinh sản hữu tính - theo [[lý thuyết dòng mầm]] - thì nếu gen ngoại lai được kết hợp vào [[tế bào mầm]] của vật chủ, thì tế bào chủ (tức tế bào nhận đã có gen ngoại lai) có thể truyền gen sang thế hệ con, cháu của nó. Nếu gen ngoại lai được kết hợp vào [[tế bào xôma]], gen ngoại lai được chuyển chỉ tồn tại ở dòng tế bào xôma.<ref name=":3">{{cite journal|vauthors=Nayerossadat N, Maedeh T, Ali PA|title=Viral and nonviral delivery systems for gene delivery|journal=Advanced Biomedical Research|volume=1|pages=27|date=6 July 2012|pmid=23210086|pmc=3507026|doi=10.4103/2277-9175.98152}}</ref>

Kỹ thuật chuyển gen là một bước quyết định trong [[kỹ thuật di truyền]] để tạo ra ADN tái tổ hợp, và trong [[liệu pháp gen]] để gây bất hoạt gen gây bệnh nào đó.<ref>Campbell và cộng sự: "Sinh học" - [[Nhà xuất bản Giáo dục]], 2010.</ref><ref>"Sinh học 12" - [[Nhà xuất bản Giáo dục]], 2019.</ref> Có nhiều phương pháp chuyển gen khác nhau cho các loại tế bào và mô khác nhau.<ref>{{cite journal|vauthors=Nayerossadat N, Maedeh T, Ali PA|title=Viral and nonviral delivery systems for gene delivery|journal=Advanced Biomedical Research|volume=1|issue=1|pages=27|date=2012|pmid=23210086|pmc=3507026|doi=10.4103/2277-9175.98152}}</ref>


== Lược sử ==
== Lược sử ==
[[Tập tin:Human insulin 100IU-ml vial yellow background.jpg|nhỏ|[[Humulin]] là thuốc đầu tiên cung cấp [[insulin]] của người nhờ vi khuẩn sản xuất hộ nhờ chuyển gen mã hoá insulin người vào ''[[Escherichia coli|E. coli]]'' [[Biểu hiện gen|biểu hiện]].]]
{{Đang sửa đổi}}


* Một trong những đóng góp cơ bản đầu tiên là của Wacław Szybalski gợi ý cho [[liệu pháp gen]] và [[liệu pháp miễn dịch]] trên bài báo đăng ở PNAS năm 1962, đã báo cáo lần "sửa" gen thành công đầu tiên ở tế bào của thú.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/S0378111913003685|title=Wacław Szybalski's contribution to immunotherapy: HGPRT mutation & HAT selection as first steps to gene therapy and hybrid techniques in mammalian cells|last=Jacek J.Bigda & PatrycjaKoszałka|first=|date=|website=|archive-url=|archive-date=|dead-url=|access-date=}}</ref> Sau đó, đến năm 1968 thì Rogers & Pfuderer chứng minh bằng chứng chuyển gen qua trung gian là [[Virus|virut]]. Ít lâu sau, đã có nhiều thử nghiệm về chuyển gen, trong đó có hơn 1700 thử nghiệm lâm sàng được phê duyệt về liệu pháp gen.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/S0378111913004344|title=History of gene therapy|last=ThomasWirtha, NigelParkerb & SeppoYlä-Herttuala|first=|date=|website=|archive-url=|archive-date=|dead-url=|access-date=}}</ref>
* Đầu những năm 1980, Steven A. Rosenberg đã tiến hành chuyển gen chính thức đầu tiên được chấp thuận vào người. Các vectơ dùng virut xuất hiện vào thời gian này được xem là một công cụ chuyển gen có nhiều ưu điểm. Năm 1983, Siegel đã mô tả việc sử dụng các vectơ virus trong chuyển gen ở thực vật.<ref>{{cite journal|vauthors=Yusibov V, Shivprasad S, Turpen TH, Dawson W, Koprowski H|title=Plant viral vectors based on tobamoviruses|journal=Current Topics in Microbiology and Immunology|volume=240|pages=81–94|date=1999|pmid=10394716}}</ref> Năm 1984 loại virus đầu tiên được sử dụng làm vec tơ vắc-xin là virus vaccinia để giúp [[tinh tinh]] chống viêm gan B.<ref>{{cite journal|vauthors=Moss B, Smith GL, Gerin JL, Purcell RH|title=Live recombinant vaccinia virus protects chimpanzees against hepatitis B|journal=Nature|volume=311|issue=5981|pages=67–9|date=September 1984|pmid=6472464|doi=10.1038/311067a0}}</ref><ref>{{Cite book|title=Die Entdeckung der Doppelhelix|last=Avery|first=Oswald T.|last2=MacLeod|first2=Colin M.|last3=McCarty|first3=Maclyn|name-list-format=vanc|date=2017|publisher=Springer Spektrum, Berlin, Heidelberg|isbn=9783662471494|series=Klassische Texte der Wissenschaft|pages=97–120|language=de|doi=10.1007/978-3-662-47150-0_2}}</ref>
* Công trình tiên phong của Stanley Cohen và Herbert Boyer, những người đã phát minh ra kỹ thuật nhân bản ADN, báo hiệu sự ra đời của kỹ thuật di truyền, cho phép các gen chuyển giữa các loài sinh học khác nhau một cách dễ dàng. Khám phá của họ đã dẫn đến sự phát triển của một số protein tái tổ hợp dùng điều trị cho người như [[insulin]] và [[Nội tiết tố|hoocmôn]] tăng trưởng. Năm 1978, gen mã hóa insulin của người đã được nhân bản rồi chuyển vào [[Escherichia coli|trực khuẩn lỵ]], từ đó sản xuất ra [[humulin]] là loại dược phẩm được cấp phép đầu tiên được sản xuất bằng công nghệ ADN tái tổ hợp, được phát triển bởi Genentech và đã được Eli Lilly cấp phép bán rộng rãi trên thị trường.<ref>{{Chú thích web|url=https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC4203937/|title=Cell factories for insulin production|last=Nabih A Baeshen, Mohammed N Baeshen, Abdullah Sheikh, Roop S Bora, Mohamed Morsi M Ahmed|first=|date=|website=|archive-url=|archive-date=|dead-url=|access-date=}}</ref> Nhờ đó, tỉ lệ sống sót của những người [[Tiểu đường|bệnh tiểu đường]] tăng cao.
{{Đang viết}}
== Nguồn trích dẫn ==
== Nguồn trích dẫn ==
<references />
<references />

Phiên bản lúc 11:34, ngày 22 tháng 10 năm 2019

Sơ đồ mô tả cách chuyển gen qua biến nạp. 1) Vi khuẩn ban đầu bị kháng sinh tiêu diệt, do không có gen chống thuốc. 2) Tạo ra plasmit có gen chống thuốc in vitro (đường cong đỏ trong vòng tròn nhỏ), rồi đưa vào tế bào vi khuẩn ban đầu; plasmit này trở thành một phần của bộ gen vi khuẩn nhận. 3) Vi khuẩn biến đổi gen đã nhận gen chống thuốc. 4) Phân lập trong môi trường có kháng sinh, rồi nuôi cấy hàng loạt.

Chuyển gen là quá trình đưa vật chất di truyền (ADN hoặc ARN) ngoại lai từ tế bào này vào tế bào khác.[1][2] Vật chất di truyền này thường là ADN, nhưng có thể là ARN, dưới đây gọi chung là gen.

"Chuyển gen" là thuật ngữ thuộc lĩnh vực di truyền học phân tử, từ tiếng Anh gọi là gene delivery, dùng để chỉ quá trình chuyển gen do con người tiến hành (nhân tạo) để nghiên cứu trong di truyền học, áp dụng ở kỹ thuật di truyền, liệu pháp gen. Tế bào cung cấp gen ngoại lai được gọi là tế bào cho (donor), còn tế bào cần có gen ngoại lai gọi là tế bào nhận (recipient) cũng gọi là tế bào chủ (host) hay tế bào đích.[3][4]

Tổng quan

  • Quá trình chuyển gen chỉ được xem là thành công khi gen của tế bào cho đã vào được trong tế bào chủ, duy trì ổn định và có thể tích hợp vào bộ gen hoặc sao chép độc lập với bộ gen chủ và có biểu hiện gen.[5][6] Để đạt yêu cầu này, gen ngoại lai phải được thiết kế phù hợp với phương thức chuyển gen (dùng vi tiêm hay dùng súng bắn gen, dùng vectơ loại nào), tổng hợp như một phần của vectơ, được thiết kế để vào tế bào chủ mong muốn và chuyển đến bộ gen của tế bào đó
  • Các phương thức chuyển gen có thể là cơ học (như vi tiêm, súng bắn gen), hóa học (như chất làm dãn màng tế bào nhận, hạt nanô) hoặc sinh học (như dùng ống phấn, nhờ tinh trùng hoặc vectơvirut hay plasmit). Điều này đòi hỏi gen ngoại lai phải được tổng hợp như một phần của vectơ, được thiết kế để đi vào tế bào chủ mong muốn và chuyển gen chuyển đến bộ gen của tế bào đó. Các vectơ được sử dụng làm phương pháp phân phối gen có thể được chia thành hai loại, virut tái tổ hợp và vectơ tổng hợp (virut và không virut).[5][7]
  • Trong sinh vật nhân thực, nhất là các sinh vật đa bào sinh sản hữu tính - theo lý thuyết dòng mầm - nếu gen ngoại lai được kết hợp vào tế bào mầm của vật chủ, thì tế bào chủ đã nhận gen ngoại lai có thể truyền gen sang thế hệ con, cháu của nó. Nếu gen ngoại lai được kết hợp vào tế bào xôma, gen ngoại lai được chuyển chỉ tồn tại ở dòng tế bào xôma.[8]
  • Kỹ thuật chuyển gen là một bước quyết định trong kỹ thuật di truyền để tạo ra ADN tái tổ hợp, và trong liệu pháp gen để gây bất hoạt gen gây bệnh nào đó.[9][10] Có nhiều phương pháp chuyển gen khác nhau cho các loại tế bào và mô khác nhau.[11]

Lược sử

Humulin là thuốc đầu tiên cung cấp insulin của người nhờ vi khuẩn sản xuất hộ nhờ chuyển gen mã hoá insulin người vào E. coli biểu hiện.
  • Một trong những đóng góp cơ bản đầu tiên là của Wacław Szybalski gợi ý cho liệu pháp genliệu pháp miễn dịch trên bài báo đăng ở PNAS năm 1962, đã báo cáo lần "sửa" gen thành công đầu tiên ở tế bào của thú.[12] Sau đó, đến năm 1968 thì Rogers & Pfuderer chứng minh bằng chứng chuyển gen qua trung gian là virut. Ít lâu sau, đã có nhiều thử nghiệm về chuyển gen, trong đó có hơn 1700 thử nghiệm lâm sàng được phê duyệt về liệu pháp gen.[13]
  • Đầu những năm 1980, Steven A. Rosenberg đã tiến hành chuyển gen chính thức đầu tiên được chấp thuận vào người. Các vectơ dùng virut xuất hiện vào thời gian này được xem là một công cụ chuyển gen có nhiều ưu điểm. Năm 1983, Siegel đã mô tả việc sử dụng các vectơ virus trong chuyển gen ở thực vật.[14] Năm 1984 loại virus đầu tiên được sử dụng làm vec tơ vắc-xin là virus vaccinia để giúp tinh tinh chống viêm gan B.[15][16]
  • Công trình tiên phong của Stanley Cohen và Herbert Boyer, những người đã phát minh ra kỹ thuật nhân bản ADN, báo hiệu sự ra đời của kỹ thuật di truyền, cho phép các gen chuyển giữa các loài sinh học khác nhau một cách dễ dàng. Khám phá của họ đã dẫn đến sự phát triển của một số protein tái tổ hợp dùng điều trị cho người như insulinhoocmôn tăng trưởng. Năm 1978, gen mã hóa insulin của người đã được nhân bản rồi chuyển vào trực khuẩn lỵ, từ đó sản xuất ra humulin là loại dược phẩm được cấp phép đầu tiên được sản xuất bằng công nghệ ADN tái tổ hợp, được phát triển bởi Genentech và đã được Eli Lilly cấp phép bán rộng rãi trên thị trường.[17] Nhờ đó, tỉ lệ sống sót của những người bệnh tiểu đường tăng cao.

Nguồn trích dẫn

  1. ^ “Gene delivery”. Chú thích có tham số trống không rõ: |dead-url= (trợ giúp)
  2. ^ Jones CH, Chen CK, Ravikrishnan A, Rane S, Pfeifer BA (tháng 11 năm 2013). “Overcoming nonviral gene delivery barriers: perspective and future”. Molecular Pharmaceutics.
  3. ^ Campbell và cộng sự: "Sinh học" - Nhà xuất bản Giáo dục, 2010.
  4. ^ "Sinh học 12" - Nhà xuất bản Giáo dục, 2019.
  5. ^ a b Kamimura K, Suda T, Zhang G, Liu D (tháng 10 năm 2011). “Advances in Gene Delivery Systems”. Pharmaceutical Medicine. 25 (5): 293–306. doi:10.2165/11594020-000000000-00000 (không hoạt động 2019-08-20). PMC 3245684. PMID 22200988.Quản lý CS1: DOI không hoạt động tính đến tháng 8 2019 (liên kết)
  6. ^ Mali S (tháng 1 năm 2013). “Delivery systems for gene therapy”. Indian Journal of Human Genetics. 19 (1): 3–8. doi:10.4103/0971-6866.112870. PMC 3722627. PMID 23901186.
  7. ^ Pack DW, Hoffman AS, Pun S, Stayton PS (tháng 7 năm 2005). “Design and development of polymers for gene delivery”. Nature Reviews. Drug Discovery (bằng tiếng Anh). 4 (7): 581–93. doi:10.1038/nrd1775. PMID 16052241.
  8. ^ Nayerossadat N, Maedeh T, Ali PA (6 tháng 7 năm 2012). “Viral and nonviral delivery systems for gene delivery”. Advanced Biomedical Research. 1: 27. doi:10.4103/2277-9175.98152. PMC 3507026. PMID 23210086.
  9. ^ Campbell và cộng sự: "Sinh học" - Nhà xuất bản Giáo dục, 2010.
  10. ^ "Sinh học 12" - Nhà xuất bản Giáo dục, 2019.
  11. ^ Nayerossadat N, Maedeh T, Ali PA (2012). “Viral and nonviral delivery systems for gene delivery”. Advanced Biomedical Research. 1 (1): 27. doi:10.4103/2277-9175.98152. PMC 3507026. PMID 23210086.
  12. ^ Jacek J.Bigda & PatrycjaKoszałka. “Wacław Szybalski's contribution to immunotherapy: HGPRT mutation & HAT selection as first steps to gene therapy and hybrid techniques in mammalian cells”. Chú thích có tham số trống không rõ: |dead-url= (trợ giúp)
  13. ^ ThomasWirtha, NigelParkerb & SeppoYlä-Herttuala. “History of gene therapy”. Chú thích có tham số trống không rõ: |dead-url= (trợ giúp)
  14. ^ Yusibov V, Shivprasad S, Turpen TH, Dawson W, Koprowski H (1999). “Plant viral vectors based on tobamoviruses”. Current Topics in Microbiology and Immunology. 240: 81–94. PMID 10394716.
  15. ^ Moss B, Smith GL, Gerin JL, Purcell RH (tháng 9 năm 1984). “Live recombinant vaccinia virus protects chimpanzees against hepatitis B”. Nature. 311 (5981): 67–9. doi:10.1038/311067a0. PMID 6472464.
  16. ^ Avery, Oswald T.; MacLeod, Colin M.; McCarty, Maclyn (2017). Die Entdeckung der Doppelhelix. Klassische Texte der Wissenschaft (bằng tiếng Đức). Springer Spektrum, Berlin, Heidelberg. tr. 97–120. doi:10.1007/978-3-662-47150-0_2. ISBN 9783662471494. Đã bỏ qua tham số không rõ |name-list-format= (gợi ý |name-list-style=) (trợ giúp)
  17. ^ Nabih A Baeshen, Mohammed N Baeshen, Abdullah Sheikh, Roop S Bora, Mohamed Morsi M Ahmed. “Cell factories for insulin production”. Chú thích có tham số trống không rõ: |dead-url= (trợ giúp)Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)