Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thiên thần sa ngã”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 15: Dòng 15:
{{quotation|1 Hê-nóc 10:12: "Và toàn cõi trần gian đã bị suy đồi bởi những lời giáo huấn từ Azâzêl. Để cho y phải nhận tất cả tội lỗi."}}
{{quotation|1 Hê-nóc 10:12: "Và toàn cõi trần gian đã bị suy đồi bởi những lời giáo huấn từ Azâzêl. Để cho y phải nhận tất cả tội lỗi."}}
Một cách diễn giải dựa trên thuyết nguyên nhân về 1 Hê-nóc có liên quan tới khởi nguyên của cái ác. Bằng cách đùn đẩy ngọn nguồn tội lỗi của nhân loại sang những lời chỉ dẫn phi pháp của thiên thần, cái ác được quy cho một thứ siêu nhiên đến từ bên ngoài. Mô-típ về cái ác trong 1 Hê-nóc khác với [[thần học]] Do Thái và Cơ đốc giáo sau này, khi mà cái ác là thứ gì đó xuất phát từ bên trong.<ref>Annette Yoshiko Reed ''Fallen Angels and the History of Judaism and Christianity: The Reception of Enochic Literature'' Cambridge University Press 2005 {{ISBN|978-0-521-85378-1}} tr. 6</ref> Theo một cách giải thích [[mẫu hình]], 1 Hê-nóc có lẽ đề cập đến những cuộc hôn nhân phi pháp giữa thầy tế và phụ nữ. Cụ thể là trong [[sách Lêvi]] 21:1-15, thầy tế bị cấm kết hôn với phụ nữ không trinh bạch. Theo đó, những thiên thần sa ngã được đề cập đến trong 1 Hê-nóc là những thấy tế đã làm ô uế bản thân vì đã kết hôn với phụ nữ không trong trắng. Giống như việc thiên thần bị trục xuất khỏi thiên đàng, những giáo sĩ này bị ngăn cấm cử hành lễ trên điện thờ. Khác với những tác phẩm về Khải huyền khác, 1 Hê-nóc phản ánh sự bất mãn ngày càng tăng đối với những tổ chức tư tế ở Jerusalem vào thế kỷ thứ 3 TCN. Cách giải thích mẫu hình so sánh truyền thuyết Ađam và nguồn cội của cái ác khi trong cả hai, việc vượt qua những giới hạn cố hữu trong bản chất cũng chính là nguyên nhân dẫn tới sự sa ngã. Cách giải thích này trái ngược cách giải thích theo thuyết nguyên nhân, vốn bao hàm ý một thế lực khác trên thiên đàng bên cạnh Thiên Chúa. Giải pháp này thiếu phù hợp với tư tưởng [[độc thần]].<ref>SUTER, DAVID. ''Fallen Angel, Fallen Priest: The Problem of Family Purity in 1 Enoch 6—16.'' Hebrew Union College Annual, tập 50, 1979, các trang 115–135. JSTOR,</ref> Mặt khác, sự nhập môn của những nguồn tri thức bị cấm có lẽ phản ánh tới sự từ chối văn hóa Hy Lạp ngoại lai của người Do Thái lúc bấy giờ. Theo đó, những thiên thần sa ngã tượng trưng cho những nhân vật trong [[thần thoại Hy Lạp]] đã truyền dạy những cấm thuật mà các vị vua và tướng lĩnh Hy Lạp sử dụng để đàn áp người Do Thái.<ref>George W. E. Nickelsburg. “Apocalyptic and Myth in 1 Enoch 6-11.” Journal of Biblical Literature, tập 96, số 3, 1977, các trang 383–405</ref>
Một cách diễn giải dựa trên thuyết nguyên nhân về 1 Hê-nóc có liên quan tới khởi nguyên của cái ác. Bằng cách đùn đẩy ngọn nguồn tội lỗi của nhân loại sang những lời chỉ dẫn phi pháp của thiên thần, cái ác được quy cho một thứ siêu nhiên đến từ bên ngoài. Mô-típ về cái ác trong 1 Hê-nóc khác với [[thần học]] Do Thái và Cơ đốc giáo sau này, khi mà cái ác là thứ gì đó xuất phát từ bên trong.<ref>Annette Yoshiko Reed ''Fallen Angels and the History of Judaism and Christianity: The Reception of Enochic Literature'' Cambridge University Press 2005 {{ISBN|978-0-521-85378-1}} tr. 6</ref> Theo một cách giải thích [[mẫu hình]], 1 Hê-nóc có lẽ đề cập đến những cuộc hôn nhân phi pháp giữa thầy tế và phụ nữ. Cụ thể là trong [[sách Lêvi]] 21:1-15, thầy tế bị cấm kết hôn với phụ nữ không trinh bạch. Theo đó, những thiên thần sa ngã được đề cập đến trong 1 Hê-nóc là những thấy tế đã làm ô uế bản thân vì đã kết hôn với phụ nữ không trong trắng. Giống như việc thiên thần bị trục xuất khỏi thiên đàng, những giáo sĩ này bị ngăn cấm cử hành lễ trên điện thờ. Khác với những tác phẩm về Khải huyền khác, 1 Hê-nóc phản ánh sự bất mãn ngày càng tăng đối với những tổ chức tư tế ở Jerusalem vào thế kỷ thứ 3 TCN. Cách giải thích mẫu hình so sánh truyền thuyết Ađam và nguồn cội của cái ác khi trong cả hai, việc vượt qua những giới hạn cố hữu trong bản chất cũng chính là nguyên nhân dẫn tới sự sa ngã. Cách giải thích này trái ngược cách giải thích theo thuyết nguyên nhân, vốn bao hàm ý một thế lực khác trên thiên đàng bên cạnh Thiên Chúa. Giải pháp này thiếu phù hợp với tư tưởng [[độc thần]].<ref>SUTER, DAVID. ''Fallen Angel, Fallen Priest: The Problem of Family Purity in 1 Enoch 6—16.'' Hebrew Union College Annual, tập 50, 1979, các trang 115–135. JSTOR,</ref> Mặt khác, sự nhập môn của những nguồn tri thức bị cấm có lẽ phản ánh tới sự từ chối văn hóa Hy Lạp ngoại lai của người Do Thái lúc bấy giờ. Theo đó, những thiên thần sa ngã tượng trưng cho những nhân vật trong [[thần thoại Hy Lạp]] đã truyền dạy những cấm thuật mà các vị vua và tướng lĩnh Hy Lạp sử dụng để đàn áp người Do Thái.<ref>George W. E. Nickelsburg. “Apocalyptic and Myth in 1 Enoch 6-11.” Journal of Biblical Literature, tập 96, số 3, 1977, các trang 383–405</ref>

=== Sách Hê-nóc thứ hai ===
Khái niệm về thiên thần sa ngã cũng xuất hiện trong Sách Hê-nóc thứ hai. Tác phẩm miêu tả Hê-nóc thăng thiên qua các tầng trời. Trong chuyến hành trình của mình, ông đã chạm trán những thiên thần sa ngã đang bị giam cầm ở tầng trời thứ hai. Ông vốn ban đầu đã có ý muốn cầu nguyện cho họ, nhưng sau đó đã từ bỏ ý định này khi bản thân ông chỉ là một con người, không xứng để cầu nguyện cho các thiên thần. Ở tầng trời thứ năm, ông lại tiếp tục diện kiến những thiên thần nổi loạn khác được gọi là ''[[Watcher (thiên thần)|Grigori]]'', vì đang quá đau buồn mà không hòa chung tiếng hát cùng những vị thần khác trên thiên đàng. Hê-nóc đã cố gắng làm cho họ vui lên khi kể lại những lời cầu nguyện mà ông đã dành cho các thiên thần khác. Ngay sau khi Hê-nóc kể xong, họ đã quyết định tham gia nghi thức tế lễ trên thiên đàng.<ref>Annette Yoshiko Reed ''Fallen Angels and the History of Judaism and Christianity: The Reception of Enochic Literature'' Cambridge University Press 2005 {{ISBN|9781139446877}} tr. 103-104</ref>

Đáng chú ý, dựa theo tác phẩm này thì thủ lĩnh của ''Grigori'' là Satanail chứ không phải là Azâzêl hay Shemyaza như được ghi chép trong các Sách Hê-nóc khác.<ref name="Orlov 2012">Andrei Orlov, Gabriele Boccaccini ''New Perspectives on 2 Enoch: No Longer Slavonic Onl'' Brill 2012 {{ISBN|9789004230149}} tr. 150, 164</ref> Tuy vậy, các ''grigori'' này được xác định là các Canh thức trong 1 Hê-nóc.<ref name="Orlov,164">{{harvnb|Orlov|2011|p=164}}</ref><ref>{{harvnb|Anderson|2000|p=[https://books.google.com/books?id=1YoUBBVGBGEC&pg=PA46&dq=2+enoch+18:3&hl=en&sa=X&ei=uVP5T7_9DIqy2QXc24HiBg&ved=0CEAQ6AEwAg#v=onepage&q=2%20enoch%2018%3A3&f=false 64]: "In 2 Enoch 18:3... the fall of Satan and his angels is talked of in terms of the Watchers (Grigori) story, and connected with Genesis 6:1–4."}}</ref>

Câu chuyện trong 2 Hê-nóc 18:1–7 về những ''Grigori'' đã xuống cõi trần gian, kết hôn với phàm nhân và "làm nhơ bẩn trần gian bằng những việc làm của chúng", khiến họ bị đem nhốt dưới đất. Chi tiết này cho thấy tác giả của 2 Hê-nóc biết về câu chuyện được ghi lại trong 1 Hê-nóc.<ref name="Orlov 2012" /> Trong phiên bản 2 Hê-nóc được hiệu đính, chương thứ 29 đề cập tới những thiên thần bị "đuổi khỏi đỉnh cao" khi thủ lĩnh của họ cố gắng ngang hàng với quyền năng của Thiên Chúa (2 Hê-nóc 29:1–4). Đây vốn có lẽ là một ý tưởng được vay mượn từ truyền thuyết về Attar, người cố gắng chiếm đoạt ngai vị của thần Baal, trong tôn giáo Canaan cổ đại. Việc miêu tả thiên thần Satanail như một vị thần đang cố gắng đoạt lấy ngai vị từ một vị thần cao hơn cũng được áp dụng bởi Cơ đốc giáo sau này khi miêu tả về thất bại của Satan.<ref>Howard Schwartz ''Tree of Souls: The Mythology of Judaism'' Oxford University Press 2006 {{ISBN|9780195327137}} tr. 108</ref>

=== Jubilee ===
{{Main|Sách Jubilee}}
Sách Jubilee là một tác phẩm tôn giáo cổ của người Do Thái, được Giáo hội Chính thống Ethiopia và Beta Israel chấp nhận là kinh điển. Tác phẩm có đề cập đến các Canh thức là những người nằm trong số các thiên thần được tạo ra ngay từ ngày đầu tiên.<ref>{{Cite web|url=http://www.sacred-texts.com/bib/bep/bep02.htm|title=The Book of Enoch the Prophet: Chapter I-XX|website=www.sacred-texts.com}}</ref><ref>Todd R. Hanneken ''The Subversion of the Apocalypses in the Book of Jubilees'' Society of Biblical Lit {{ISBN|9781589836433}} tr. 57</ref> Tuy nhiên, khác với sách Hê-nóc thứ nhất, các vị Canh thức được Thiên chúa truyền lệnh xuống trần gian hướng dẫn loài người.<ref>Todd R. Hanneken ''The Subversion of the Apocalypses in the Book of Jubilees'' Society of Biblical Lit {{ISBN|9781589836433}} tr. 59</ref><ref>Annette Yoshiko Reed ''Fallen Angels and the History of Judaism and Christianity: The Reception of Enochic Literature'' Cambridge University Press 2005 {{ISBN|978-0-521-85378-1}} tr. 90</ref> Chỉ sau khi quan hệ ái tình với phụ nữ phàm trần, họ mới vi phạm thiên quy.<ref name="ReferenceB">Chad T. Pierce ''Spirits and the Proclamation of Christ: 1 Peter 3:18-22 in Light of Sin and Punishment Traditions in Early Jewish and Christian Literature'' Mohr Siebeck 2011 {{ISBN|9783161508585}} tr. 112</ref> Các cuộc hôn nhân phi pháp này đã sản sinh nên những đứa con của ma quỷ, những kẻ phải giao chiến lẫn nhau cho đến chết, trong khi các Canh thức bị phạt trói ở sâu dưới lòng đất.<ref>Jeffrey Burton Russell ''The Devil: Perceptions of Evil from Antiquity to Primitive Christianity'' Cornell University Press 1987 {{ISBN|9780801494093}} tr. 193</ref> Trong Jubilee 10:1, một thiên thần khác tên là Mastema xuất hiện với tư cách là thủ lĩnh của những linh hồn ma ác.<ref name="ReferenceB" /> Y đã cầu xin Thiên Chúa tha thứ một vài ác quỷ để có thể sử dụng sự giúp đỡ của chúng nhằm dẫn dắt nhân loại bước vào con đường tội lỗi. Và rồi y trở thành thủ lĩnh của chúng:<ref name="ReferenceB" />
{{quotation|Thiên Chúa, Đấng sáng thế, hãy để một số kẻ trong số chúng ở lại đây với ta, hãy để chúng nghe lời ta và làm tất cả những gì ta sẽ nói với chúng; vì nếu một số người trong số họ không được để lại cho ta, ta sẽ không thể thi triển quyền lực theo ý muốn lên những đứa con của loài người; những điều này là sự tha hóa, dẫn đến sự lầm lạc trước sự phán xét của ta, vì sự gian ác của hậu duệ loài người là cực lớn. (10:8)}}
Cả sách Hê-nóc thứ nhất lẫn sách Jubilee đều chứa đựng mô-típ thiên thần truyền cái ác cho con người. Tuy nhiên, khác với sách Hê-nóc, sách Jubilee không cho rằng cái ác được tạo nên là vì các thiên thần đã sa ngã, dù sách cũng khẳng định rằng họ dẫn dắt con người đi theo con đường tội lỗi. Thêm vào đó, trong khi những thiên thần sa ngã trong sách Hê-nóc hành xử đối nghịch với ý muốn của Thiên Chúa, thì những thiên thần sa ngã và ác quỷ trong sách Jubilee dường như không có quyền hành độc lập với Thiên Chúa mà chỉ hành động trong phạm vi quyền uy của Ngài.<ref>Todd R. Hanneken ''The Subversion of the Apocalypses in the Book of Jubilees'' Society of Biblical Lit {{ISBN|9781589836433}} tr. 60</ref>


==Tham khảo==
==Tham khảo==

Phiên bản lúc 23:14, ngày 19 tháng 9 năm 2020

Pieter Bruegel Già: Thiên thần sa ngã, tranh vẽ năm 1562

Trong các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham, các thiên thần sa ngã là những thiên thần bị trục xuất khỏi thiên đàng. Thuật ngữ "thiên thần sa ngã" theo nghĩa đen không xuất hiện trong Kinh Thánh cũng như trong các thánh thư tôn giáo Abraham khác, nhưng chúng được dùng để mô tả các thiên thần bị đuổi khỏi thiên đàng, hoặc các thiên thần lầm đường lạc lối. Những thiên thần như vậy thường cám dỗ con người đi theo con đường tội lỗi.

Ý tưởng về các thiên thần sa ngã bắt nguồn từ Sách Enoch, một nguỵ điển của người Do Thái, hoặc từ giả thuyết rằng "những người con trai của Thiên Chúa" (בני האלוהים) được đề cập trong Genesis 6:1–4 là những thiên thần. Trong giai đoạn ngay trước khi Tân Ước được tạo ra, một số giáo phái Do Thái giáo, cũng như nhiều Giáo phụ Kitô giáo, đã xác định "những người con trai của Thiên Chúa" được đề cập trong Genesis 6:1–4 là những thiên thần sa ngã.

Thời kỳ Đền thờ Thứ hai

Khái niệm về thiên thần sa ngã được tìm thấy chủ yếu trong các tác phẩm có niên đại vào thời kỳ Đền thờ Thứ hai, tức là vào khoảng thời gian từ năm 540 TCN đến năm 70 CN. Những tác phẩm này bao gồm Sách Hê-nóc, Sách Jubilee, Kinh Đại lực sĩ từ Qumran hay cũng có thể là Sáng thế ký 6:1-4.[1] Sách Daniel thứ tư có 3 lần đề cập tới một sinh vật đến từ thiên đàng gọi là "Canh thức", trong đó 2 lần ở số ít (câu 13, 23) và một lần ở số nhiều (câu 17, "[…] các vị canh thức, […] các bậc thánh nhân"). Trong tiếng Hy Lạp cổ đại, từ dùng để chỉ các Canh thức là ἐγρήγοροι (egrḗgoroi, số nhiều là egrḗgoros), có nghĩa đen là "tỉnh táo" hay "cảnh giác".[2] Một số học giả cho rằng truyền thuyết của người Do Thái về những thiên thần sa ngã rất có thể đã xuất hiện và thậm chí ghi chép lại dưới dạng văn bản trước khi Sáng thế ký 6:1–4 được viết nên.[3][4][a] Theo sách Hê-nóc, những vị Canh thức này đã "sa ngã" sau khi "phải lòng" phụ nữ phàm trần. Sách Hê-nóc thứ hai (hay còn gọi là Sách Enoch Slav) cũng đề cập tới những sinh vật tương tự, gọi là Grigori theo phiên âm tiếng Hy Lạp.[6] Đối chiếu với các Sách Hê-nóc khác thì thiên thần sa ngã đóng vai trò ít quan trọng hơn trong Sách Hê-nóc thứ ba. Cuốn này chỉ đề cập tới 3 thiên thần sa ngã duy nhất là Azâzêl, Azza và Uzza. Tương tự như những gì ghi chép trong sách Hê-nóc thứ nhất, những thiên thần này truyền dạy pháp thuật phù thủy ở trần gian, dẫn đến sự tha hóa.[7] Tuy nhiên, tác phẩm này không hề đề cập tới nguyên do tại sao họ "sa ngã". Cũng theo sách Enoch thứ ba, 4:6, họ sau đó đã xuất hiện trên thiên đàng để phản đối sự hiện diện của Hê-nóc.

Sách Hê-nóc thứ nhất

Chester Beatty XII, Bản chép tay tiếng Hy Lạp của Sách Hê-nóc, thế kỷ 4.

Chiếu theo 1 Hê-nóc 7.2, những Canh thức đã "phải lòng" phụ nữ phàm trần[8] và có quan hệ tình ái với họ. Những đứa con được sinh ra từ những mối tình này, cũng như với kiến thức mà chúng được ban cho, làm bại hoại trần gian và nhân loại (1 Hê-nóc 10.11-12).[8] Trong số những thiên thần này, thủ lĩnh Shemyaza và Azâzêl là nổi bật hơn cả. Cũng giống như nhiều thiên thần sa ngã khác được đề cập đến trong 1 Hê-nóc 8.1-9, Azâzêl truyền dạy cho nam giới các "cấm thuật". Cũng chính Azâzêl đã bị Hê-nóc quở trách vì đã đưa ra những chỉ dẫn không đứng đắn (1 Hê-nóc 13.1).[9] Dựa theo 1 Hê-nóc 10.6, Thiên Chúa đã sai Tổng lãnh thiên thần Raphael xích và giam cầm Azâzêl trong sa mạc Dudael. Thêm vào đó, Azâzêl đã bị buộc tội vì khiến trần gian tha hóa:

1 Hê-nóc 10:12: "Và toàn cõi trần gian đã bị suy đồi bởi những lời giáo huấn từ Azâzêl. Để cho y phải nhận tất cả tội lỗi."

Một cách diễn giải dựa trên thuyết nguyên nhân về 1 Hê-nóc có liên quan tới khởi nguyên của cái ác. Bằng cách đùn đẩy ngọn nguồn tội lỗi của nhân loại sang những lời chỉ dẫn phi pháp của thiên thần, cái ác được quy cho một thứ siêu nhiên đến từ bên ngoài. Mô-típ về cái ác trong 1 Hê-nóc khác với thần học Do Thái và Cơ đốc giáo sau này, khi mà cái ác là thứ gì đó xuất phát từ bên trong.[10] Theo một cách giải thích mẫu hình, 1 Hê-nóc có lẽ đề cập đến những cuộc hôn nhân phi pháp giữa thầy tế và phụ nữ. Cụ thể là trong sách Lêvi 21:1-15, thầy tế bị cấm kết hôn với phụ nữ không trinh bạch. Theo đó, những thiên thần sa ngã được đề cập đến trong 1 Hê-nóc là những thấy tế đã làm ô uế bản thân vì đã kết hôn với phụ nữ không trong trắng. Giống như việc thiên thần bị trục xuất khỏi thiên đàng, những giáo sĩ này bị ngăn cấm cử hành lễ trên điện thờ. Khác với những tác phẩm về Khải huyền khác, 1 Hê-nóc phản ánh sự bất mãn ngày càng tăng đối với những tổ chức tư tế ở Jerusalem vào thế kỷ thứ 3 TCN. Cách giải thích mẫu hình so sánh truyền thuyết Ađam và nguồn cội của cái ác khi trong cả hai, việc vượt qua những giới hạn cố hữu trong bản chất cũng chính là nguyên nhân dẫn tới sự sa ngã. Cách giải thích này trái ngược cách giải thích theo thuyết nguyên nhân, vốn bao hàm ý một thế lực khác trên thiên đàng bên cạnh Thiên Chúa. Giải pháp này thiếu phù hợp với tư tưởng độc thần.[11] Mặt khác, sự nhập môn của những nguồn tri thức bị cấm có lẽ phản ánh tới sự từ chối văn hóa Hy Lạp ngoại lai của người Do Thái lúc bấy giờ. Theo đó, những thiên thần sa ngã tượng trưng cho những nhân vật trong thần thoại Hy Lạp đã truyền dạy những cấm thuật mà các vị vua và tướng lĩnh Hy Lạp sử dụng để đàn áp người Do Thái.[12]

Sách Hê-nóc thứ hai

Khái niệm về thiên thần sa ngã cũng xuất hiện trong Sách Hê-nóc thứ hai. Tác phẩm miêu tả Hê-nóc thăng thiên qua các tầng trời. Trong chuyến hành trình của mình, ông đã chạm trán những thiên thần sa ngã đang bị giam cầm ở tầng trời thứ hai. Ông vốn ban đầu đã có ý muốn cầu nguyện cho họ, nhưng sau đó đã từ bỏ ý định này khi bản thân ông chỉ là một con người, không xứng để cầu nguyện cho các thiên thần. Ở tầng trời thứ năm, ông lại tiếp tục diện kiến những thiên thần nổi loạn khác được gọi là Grigori, vì đang quá đau buồn mà không hòa chung tiếng hát cùng những vị thần khác trên thiên đàng. Hê-nóc đã cố gắng làm cho họ vui lên khi kể lại những lời cầu nguyện mà ông đã dành cho các thiên thần khác. Ngay sau khi Hê-nóc kể xong, họ đã quyết định tham gia nghi thức tế lễ trên thiên đàng.[13]

Đáng chú ý, dựa theo tác phẩm này thì thủ lĩnh của Grigori là Satanail chứ không phải là Azâzêl hay Shemyaza như được ghi chép trong các Sách Hê-nóc khác.[14] Tuy vậy, các grigori này được xác định là các Canh thức trong 1 Hê-nóc.[15][16]

Câu chuyện trong 2 Hê-nóc 18:1–7 về những Grigori đã xuống cõi trần gian, kết hôn với phàm nhân và "làm nhơ bẩn trần gian bằng những việc làm của chúng", khiến họ bị đem nhốt dưới đất. Chi tiết này cho thấy tác giả của 2 Hê-nóc biết về câu chuyện được ghi lại trong 1 Hê-nóc.[14] Trong phiên bản 2 Hê-nóc được hiệu đính, chương thứ 29 đề cập tới những thiên thần bị "đuổi khỏi đỉnh cao" khi thủ lĩnh của họ cố gắng ngang hàng với quyền năng của Thiên Chúa (2 Hê-nóc 29:1–4). Đây vốn có lẽ là một ý tưởng được vay mượn từ truyền thuyết về Attar, người cố gắng chiếm đoạt ngai vị của thần Baal, trong tôn giáo Canaan cổ đại. Việc miêu tả thiên thần Satanail như một vị thần đang cố gắng đoạt lấy ngai vị từ một vị thần cao hơn cũng được áp dụng bởi Cơ đốc giáo sau này khi miêu tả về thất bại của Satan.[17]

Jubilee

Sách Jubilee là một tác phẩm tôn giáo cổ của người Do Thái, được Giáo hội Chính thống Ethiopia và Beta Israel chấp nhận là kinh điển. Tác phẩm có đề cập đến các Canh thức là những người nằm trong số các thiên thần được tạo ra ngay từ ngày đầu tiên.[18][19] Tuy nhiên, khác với sách Hê-nóc thứ nhất, các vị Canh thức được Thiên chúa truyền lệnh xuống trần gian hướng dẫn loài người.[20][21] Chỉ sau khi quan hệ ái tình với phụ nữ phàm trần, họ mới vi phạm thiên quy.[22] Các cuộc hôn nhân phi pháp này đã sản sinh nên những đứa con của ma quỷ, những kẻ phải giao chiến lẫn nhau cho đến chết, trong khi các Canh thức bị phạt trói ở sâu dưới lòng đất.[23] Trong Jubilee 10:1, một thiên thần khác tên là Mastema xuất hiện với tư cách là thủ lĩnh của những linh hồn ma ác.[22] Y đã cầu xin Thiên Chúa tha thứ một vài ác quỷ để có thể sử dụng sự giúp đỡ của chúng nhằm dẫn dắt nhân loại bước vào con đường tội lỗi. Và rồi y trở thành thủ lĩnh của chúng:[22]

Thiên Chúa, Đấng sáng thế, hãy để một số kẻ trong số chúng ở lại đây với ta, hãy để chúng nghe lời ta và làm tất cả những gì ta sẽ nói với chúng; vì nếu một số người trong số họ không được để lại cho ta, ta sẽ không thể thi triển quyền lực theo ý muốn lên những đứa con của loài người; những điều này là sự tha hóa, dẫn đến sự lầm lạc trước sự phán xét của ta, vì sự gian ác của hậu duệ loài người là cực lớn. (10:8)

Cả sách Hê-nóc thứ nhất lẫn sách Jubilee đều chứa đựng mô-típ thiên thần truyền cái ác cho con người. Tuy nhiên, khác với sách Hê-nóc, sách Jubilee không cho rằng cái ác được tạo nên là vì các thiên thần đã sa ngã, dù sách cũng khẳng định rằng họ dẫn dắt con người đi theo con đường tội lỗi. Thêm vào đó, trong khi những thiên thần sa ngã trong sách Hê-nóc hành xử đối nghịch với ý muốn của Thiên Chúa, thì những thiên thần sa ngã và ác quỷ trong sách Jubilee dường như không có quyền hành độc lập với Thiên Chúa mà chỉ hành động trong phạm vi quyền uy của Ngài.[24]

Tham khảo

Ghi chú

  1. ^ Lester L. Grabbe calls the story of the sexual intercourse between angels and women "an old myth in Judaism". Further, he states: "the question of whether the myth is an interpretation of Genesis or whether Genesis represents a brief reflection of the myth is debated."[5]

Chú thích

  1. ^ Lester L. Grabbe, An Introduction to First Century Judaism: Jewish Religion and History in the Second Temple Period (Continuum International Publishing Group 1996 ISBN 9780567085061), tr. 101
  2. ^ ἐγρήγορος. Henry George Liddell. Robert Scott. A Greek–English Lexicon revised and augmented throughout by Sir Henry Stuart Jones with the assistance of Roderick McKenzie. Oxford. Clarendon Press. 1940. tr. 474. Available online at the Perseus Project Texts Loaded under PhiloLogic (ARTFL project) at the University of Chicago.
  3. ^ Lester L. Grabbe, A History of the Jews and Judaism in the Second Temple Period (Continuum 2004 ISBN 9780567043528), tr. 344
  4. ^ Matthew Black, The Book of Enoch or I Enoch: A New English Edition with Commentary and Textual Notes (Brill 1985 ISBN 9789004071001), tr. 14
  5. ^ Grabbe 2004, tr. 101
  6. ^ Andrei A. Orlov, Dark Mirrors: Azazel and Satanael in Early Jewish Demonology (SUNY Press 2011 ISBN 978-1-43843951-8), tr. 164
  7. ^ Annette Yoshiko Reed Fallen Angels and the History of Judaism and Christianity: The Reception of Enochic Literature Cambridge University Press 2005 ISBN 978-0-521-85378-1 tr. 256
  8. ^ a b Laurence, Richard (1883). “The Book of Enoch the Prophet”.
  9. ^ Ra'anan S. Boustan, Annette Yoshiko Reed Heavenly Realms and Earthly Realities in Late Antique Religions Cambridge University Press 2004 ISBN 978-1-139-45398-1 tr. 60
  10. ^ Annette Yoshiko Reed Fallen Angels and the History of Judaism and Christianity: The Reception of Enochic Literature Cambridge University Press 2005 ISBN 978-0-521-85378-1 tr. 6
  11. ^ SUTER, DAVID. Fallen Angel, Fallen Priest: The Problem of Family Purity in 1 Enoch 6—16. Hebrew Union College Annual, tập 50, 1979, các trang 115–135. JSTOR,
  12. ^ George W. E. Nickelsburg. “Apocalyptic and Myth in 1 Enoch 6-11.” Journal of Biblical Literature, tập 96, số 3, 1977, các trang 383–405
  13. ^ Annette Yoshiko Reed Fallen Angels and the History of Judaism and Christianity: The Reception of Enochic Literature Cambridge University Press 2005 ISBN 9781139446877 tr. 103-104
  14. ^ a b Andrei Orlov, Gabriele Boccaccini New Perspectives on 2 Enoch: No Longer Slavonic Onl Brill 2012 ISBN 9789004230149 tr. 150, 164
  15. ^ Orlov 2011, tr. 164
  16. ^ Anderson 2000, tr. 64: "In 2 Enoch 18:3... the fall of Satan and his angels is talked of in terms of the Watchers (Grigori) story, and connected with Genesis 6:1–4."
  17. ^ Howard Schwartz Tree of Souls: The Mythology of Judaism Oxford University Press 2006 ISBN 9780195327137 tr. 108
  18. ^ “The Book of Enoch the Prophet: Chapter I-XX”. www.sacred-texts.com.
  19. ^ Todd R. Hanneken The Subversion of the Apocalypses in the Book of Jubilees Society of Biblical Lit ISBN 9781589836433 tr. 57
  20. ^ Todd R. Hanneken The Subversion of the Apocalypses in the Book of Jubilees Society of Biblical Lit ISBN 9781589836433 tr. 59
  21. ^ Annette Yoshiko Reed Fallen Angels and the History of Judaism and Christianity: The Reception of Enochic Literature Cambridge University Press 2005 ISBN 978-0-521-85378-1 tr. 90
  22. ^ a b c Chad T. Pierce Spirits and the Proclamation of Christ: 1 Peter 3:18-22 in Light of Sin and Punishment Traditions in Early Jewish and Christian Literature Mohr Siebeck 2011 ISBN 9783161508585 tr. 112
  23. ^ Jeffrey Burton Russell The Devil: Perceptions of Evil from Antiquity to Primitive Christianity Cornell University Press 1987 ISBN 9780801494093 tr. 193
  24. ^ Todd R. Hanneken The Subversion of the Apocalypses in the Book of Jubilees Society of Biblical Lit ISBN 9781589836433 tr. 60

Liên kết ngoài