Bước tới nội dung

Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hiệu ứng Barnum”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Tham khảo: clean up using AWB
Tạo với bản dịch của trang “Barnum effect
Dòng 1: Dòng 1:
{{Thiếu nguồn}}


'''Hiệu ứng Barnum''' (còn được gọi là '''hiệu ứng Forer''' hoặc '''hiệu ứng Barnum – Forer''') là hiện tượng các cá nhân đánh giá cao những mô tả riêng về tính cách họ, nhưng thực ra lại không cụ thể và áp dụng được cho nhiều người.<ref name=":0">{{Chú thích bách khoa toàn thư|url=https://www.britannica.com/topic/Barnum-Effect|title=Barnum Effect {{!}} psychology|encyclopedia=Encyclopedia Britannica|accessdate=2018-02-14|language=en}}</ref> Hiệu ứng này có thể giải thích một phần cho sự phổ biến của những niềm tin và hành vi huyền bí như [[Chiêm tinh học|chiêm tinh]], [[Dự đoán vận may|bói toán]], [[Aura (huyền bí)|đọc hào quang]] và một số bài [[Kiểm tra nhân cách|kiểm tra tính cách]].<ref name="Seeking Alpha">{{Chú thích web|url=https://seekingalpha.com/article/4095081-barnum-effect|tựa đề=The Barnum Effect|ngày=2017-08-04|website=Seeking Alpha|nhà xuất bản=Seeking Alpha|ngày truy cập=30 November 2017}}</ref>
'''Hiệu ứng Barnum''' hay còn được gọi là hiệu ứng Forer là một hiện tượng tâm lý phổ biến.
Theo đó, mọi người thường đánh giá là "rất chính xác" cho những lời mô tả, nhận xét về tính cách của họ.
Trên thực tế, các mô tả, nhận xét ấy là mơ hồ và chung chung để áp dụng cho nhiều người. (Ví dụ: Đôi khi, bạn có xu hướng suy nghĩ rất nhiều và trên thực tế, ai trong chúng ta cũng có lúc suy nghĩ nhiều)
Hiệu ứng này có thể lí giải tại sao đa số con người tin vào chiêm tinh học, bói toán, và một số bài kiểm tra tính cách,... Hiệu ứng dựa trên sự cả tin của các cá nhân. Những lời mô tả, nhận xét càng tích cực càng lấy được sự tin tưởng lớn từ các cá nhân


Những tay lừa đảo chuyên nghiệp thường lợi dụng đặc điểm này để thuyết phục các nạn nhân rằng họ có những tài năng huyền bí. Vì những lời tự nhận này không rõ ràng, các nạn nhân sẽ tự giải nghĩa, từ đó "cá nhân" hoá các nhận định. Ngoài ra, các cá nhân có nhiều khả năng chấp nhận các đánh giá tiêu cực về bản thân nếu họ cho rằng người trình bày bản đánh giá là một chuyên gia có địa vị cao.
Thuật ngữ "Hiệu ứng Barnum" được đặt ra vào năm [[1956]] bởi nhà [[tâm lý học]] Paul Meehl trong bài tiểu luận Wanted - A Good Cookbook.


Thuật ngữ "Hiệu ứng Barnum" lần đầu được sử dụng trong bài tiểu luận ''Wanted - A Good Cookbook'' bởi nhà tâm lý học [[Paul Meehl]]. Ông dùng cụm từ này vì thấy có sự tương đồng giữa những nhận định tính cách mơ hồ trong các bài kiểm tra tâm lý "giả thành công" và những màn trình diễn của [[P. T. Barnum|Phineas Barnum]].<ref name="Meehl1956">{{Chú thích tạp chí|last=Meehl|first=Paul E.|date=1956|title=Wanted – A Good Cookbook|journal=American Psychologist|volume=11|issue=6|pages=263–272|doi=10.1037/h0044164}}</ref><ref name="Dutton1988">{{Chú thích tạp chí|last=Dutton|first=D. L.|date=1988|title=The cold reading technique|url=http://denisdutton.com/cold_reading.htm|journal=Experientia|language=en|volume=44|issue=4|pages=326–332|doi=10.1007/BF01961271|pmid=3360083|archive-url=https://web.archive.org/web/20200114055246/http://www.denisdutton.com/cold_reading.htm|archive-date=2020-01-14|access-date=2012-11-28}}</ref>
==Tham khảo==
{{tham khảo}}


== Tổng quan ==
{{sơ khai}}
"nhận định Barnum", có nghĩa là các tính chất chung được gán cho một cá nhân được coi là đúng với chúng, dù c. Kỹ thuật lợi dụng hiệu ứng này được các [[Dự đoán vận may|thầy bói]], [[Chiêm tinh học|chiêm tinh gia]] và những kẻ lừa đảo khác sử dụng nhằm thuyết phục nạn nhân rằng chúng được ban tặng tài năng huyền bí.<ref name="The Skeptic's Dictionary">{{Chú thích web|url=http://skepdic.com/barnum.html|tựa đề=Barnum effect|tác giả=Carroll|tên=Robert|website=The Skeptic's Dictionary|nhà xuất bản=The Skeptic's Dictionary|ngày truy cập=26 February 2017}}</ref> Hiệu ứng Forer là một ví dụ cụ thể cho "hiện tượng chấp nhận". Hiện tượng này mô tả xu hướng chung "chấp nhận hầu hết các nhận định tính cách không có thực."<ref name="Journal of Personality Assessment">{{Chú thích tạp chí|last=Tobacyk|first=Jerome|last2=Milford|first2=Gary|last3=Springer|first3=Thomas|last4=Tobacyk|first4=Zofia|date=June 10, 2010|title=Paranormal Beliefs and the Barnum Effect|journal=Journal of Personality Assessment|volume=52|issue=4|pages=737–739|doi=10.1207/s15327752jpa5204_13}}</ref> Một hiện tượng khác có liên quan, nhưng tổng quát hơn, là [[Xác nhận chủ quan|sự xác nhận chủ quan]].<ref name="Marks">{{Chú thích sách|title=The Psychology of the Psychic|title-link=The Psychology of the Psychic|last=Marks|first=David F.|date=2000|publisher=Prometheus Books|isbn=978-1-57392-798-7|edition=2|location=Amherst, NY|pages=41|author-link=David Marks (psychologist)}}</ref> Người ta xác nhận chủ quan khi coi hai sự kiện tách biệt, hoặc hoàn toàn ngẫu nhiên liên quan đến nhau vì niềm tin, kỳ vọng hoặc một giả thuyết đòi hỏi sự liên kết. Ví dụ, khi đọc [[Lá số tử vi|tử vi]], họ sẽ tự chủ động tìm kiếm sự tương đồng giữa các tiên đoán và nhận thức của riêng họ về tính cách.


== Những nghiên cứu đầu tiên ==
[[Thể loại:Lịch sử chiêm tinh học]]
Năm 1947, nhà tâm lý học Ross Stagner đã cho một số quản lý nhân sự làm một bài kiểm tra tính cách cá nhân. Dù vậy, sau khi thu bài, ông lại đưa họ cùng một bản đánh giá chung lấy từ những [[Lá số tử vi|lá số tử vi hoàng đạo]], phân tích [[bút tích học]]... Các đối tượng cũng được yêu cầu mức độ chính xác của những nhận định đó. Hơn một nửa trong số họ đã thấy rằng kết quả đó là khá chính xác, và gần như không có ai nói bản đánh giá sai.<ref name="Psychology Today2">{{cite magazine|author=Adrian Furnham|date=21 November 2014|title=We've Got Something for Everyone: The Barnum Effect|url=https://www.psychologytoday.com/blog/sideways-view/201411/weve-got-something-everyone-the-barnum-effect|access-date=25 February 2017|magazine=Psychology Today}}</ref><ref>{{Chú thích tạp chí|last=Stagner|first=Ross|date=1958-09-01|title=The Gullibility of Personnel Managers|journal=Personnel Psychology|language=en|volume=11|issue=3|pages=347–352|doi=10.1111/j.1744-6570.1958.tb00022.x|issn=1744-6570}}</ref>
[[Thể loại:Thiên kiến nhận thức]]

Năm 1948, trong một "thí nghiệm kiểu cổ điển",<ref name="Denis Dutton">{{Chú thích web|url=http://www.denisdutton.com/cold_reading.htm|tựa đề=The Cold Reading Technique|tác giả=Dutton|tên=Denis|website=Denis Dutton|nhà xuất bản=Denis Dutton|ngày truy cập=26 February 2017}}</ref> [[nhà tâm lý học]] [[Bertram Forer|Bertram R. Forer]] đã cho 39 sinh viên của ông làm một bài kiểm tra tâm lý tên là "Chẩn đoán Khoảng trống trong Sở thích", và nói họ sẽ nhận được những đánh giá cho riêng mình. Một tuần sau, ông đưa cho mỗi người một bản phân tích và yêu cầu họ đánh giá mức độ chính xác. Trên thực tế, họ nhận được cùng một kết quả:<ref name="Forer">{{Chú thích tạp chí|last=Forer|first=B.R.|author-link=Bertram Forer|date=1949|title=The fallacy of personal validation: A classroom demonstration of gullibility|url=http://apsychoserver.psych.arizona.edu/JJBAReprints/PSYC621/Forer_The%20fallacy%20of%20personal%20validation_1949.pdf|journal=Journal of Abnormal and Social Psychology|volume=44|issue=1|pages=118–123|doi=10.1037/h0059240|pmid=18110193|archive-url=https://web.archive.org/web/20160305220420/http://apsychoserver.psych.arizona.edu/JJBAReprints/PSYC621/Forer_The%20fallacy%20of%20personal%20validation_1949.pdf|archive-date=2016-03-05}}</ref>

# Bạn có nhu cầu được yêu thích và ngưỡng mộ rất lớn.
# Bạn có xu hướng chỉ trích bản thân
# Bạn có tiềm năng rất lớn nhưng lại chưa được khai thác.
# Dù có một số nhược điểm trong tính cách, nhưng bạn vẫn có thể che lấp khá hiệu quả.
# Mức điều chỉnh tình dục của bạn có vấn đề.
# Dù bên ngoài bạn là người có kỷ luật, biết tự chủ, bạn lại thường hay lo lắng và bất an.
# Nhiều khi bạn vẫn nghi ngờ những quyết định trước đây, không biết liệu mình đã làm đúng hay chưa.
# Bạn thích có một số thay đổi nhất định, ghét bị kiểm soát, luật lệ và quy tắc.
# Bạn tự hào rằng bản thân là một người có lối suy nghĩ độc lập, không dễ đồng ý với người khác mà không có luận cứ đầy đủ.
# Bạn cho rằng không nên quá cởi mở với người khác.
# Có những lúc bạn hướng ngoại, cởi mở, hoà đồng, nhưng cũng nhiều khi bạn hướng nội, cẩn trọng và kín đáo.
# Bạn có một số khát vọng không thực tế.
# Bạn coi bảo mật là một trong những mục tiêu lớn nhất của mình.

Các đối tượng thí nghiệm đã đánh giá những nhận định chung chung trên có độ chính xác lên tới 4.3 trên thang điểm 5. Họ chỉ được biết mình được phát cùng một bản phân tích sau khi đã nộp lại kết quả đánh giá. Forer đã tổng hợp 13 mệnh đề trong bản phân tích trên từ một quyển sách chiêm tinh bán ở sạp báo.<ref name="Forer">{{Chú thích tạp chí|last=Forer|first=B.R.|author-link=Bertram Forer|date=1949|title=The fallacy of personal validation: A classroom demonstration of gullibility|url=http://apsychoserver.psych.arizona.edu/JJBAReprints/PSYC621/Forer_The%20fallacy%20of%20personal%20validation_1949.pdf|journal=Journal of Abnormal and Social Psychology|volume=44|issue=1|pages=118–123|doi=10.1037/h0059240|pmid=18110193|archive-url=https://web.archive.org/web/20160305220420/http://apsychoserver.psych.arizona.edu/JJBAReprints/PSYC621/Forer_The%20fallacy%20of%20personal%20validation_1949.pdf|archive-date=2016-03-05}}</ref> Những nhận định đó rất tổng quát, mơ hồ và có thể áp dụng cho hầu hết mọi người.

Forer tin rằng đây là hệ quả của sự [[Độ tin cậy|cả tin]].<ref>{{Chú thích web|url=http://psych.fullerton.edu/mbirnbaum/psych101/barnum_demo.htm|tựa đề=The Barnum Demonstration|website=psych.fullerton.edu|ngày truy cập=2018-02-14}}</ref> Hiệu ứng này được cho là đã xác nhận "[[nguyên tắc Pollyanna]]". Theo nguyên tắc này, người ta có xu hướng "chấp nhận những phản hồi tích cực nhiều hơn so với tiêu cực."<ref name="Psychology Today2">{{cite magazine|author=Adrian Furnham|date=21 November 2014|title=We've Got Something for Everyone: The Barnum Effect|url=https://www.psychologytoday.com/blog/sideways-view/201411/weve-got-something-everyone-the-barnum-effect|access-date=25 February 2017|magazine=Psychology Today}}</ref>

== Tái hiện nghiên cứu ==
Theo các nghiên cứu tái hiện, có hai yếu tố đóng vai trò quan trọng khi tạo ra hiệu ứng Forer. Yếu tố đầu tiên là nội dung đánh giá và tỷ lệ đánh giá tích cực/tiêu cực. Yếu tố còn lại là niềm tin của chủ thể vào sự chân thành của người cung cấp nội dung đó.<ref name="Claridge 2008 436–444">{{Chú thích tạp chí|last=Claridge|first=G|last2=Clark, K.|last3=Powney, E.|last4=Hassan, E.|date=2008|title=Schizotypy and the Barnum effect|journal=Personality and Individual Differences|volume=44|issue=2|pages=436–444|doi=10.1016/j.paid.2007.09.006}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://thearticulateceo.typepad.com/my-blog/2012/01/something-for-everyone-the-barnum-effect.html|tựa đề=Something for Everyone – The Barnum Effect|tác giả=Rutledge|tên=Brett|ngày=2012|nhà xuất bản=The Articulate CEO|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20130612010845/http://thearticulateceo.typepad.com/my-blog/2012/01/something-for-everyone-the-barnum-effect.html|ngày lưu trữ=12 June 2013|ngày truy cập=25 November 2012}}</ref> Năm 2011, một nghiên cứu tái hiện khác đã sử dụng các nhận định áp dụng cho các tổ chức nhiều hơn cá nhân. Kết quả của thí nghiệm này cũng không khác so với các thí nghiệm trước. Kết luận được đưa ra là các đối tượng đã nhân hóa những tổ chức và dễ bị lừa khi diễn giải tính cách bản thân.<ref name="Nolan">{{Chú thích web|url=http://tedxtalks.ted.com/video/TEDxSalford-Stuart-Nolan-The-Fo;search%3Astuart%20nolan|tựa đề=Gullibility or Vulnerability?|tác giả=Nolan|tên=Stuart|ngày=2012|website=[[TEDx]]Salford|ngày truy cập=25 March 2013}}</ref>

Khi các đánh giá đủ mơ hồ, hiệu ứng Forer gần như chắc chắn sẽ xảy ra. Người ta sẽ đọc ra những ý nghĩa của riêng mình từ những đánh giá đó, khiến chúng trở nên "cá nhân" hơn. Những đánh giá hiệu quả nhất thường có cụm từ "có những lúc", chẳng hạn như "Có những lúc bạn cảm thấy vô cùng chắc chắn, nhưng cũng có khi bạn lại không được tự tin bằng." Cụm này có thể áp dụng cho gần như tất cả mọi người; do đó, họ đều sẽ có thể đọc ra được một ý nghĩa "cá nhân". Trong các thí nghiệm tái hiện, những đánh giá mơ hồ như vậy sẽ khiến hiệu ứng Forer chắc chắn xảy ra.<ref name="Psychology Today">{{cite magazine|author=Adrian Furnham|date=21 November 2014|title=We've Got Something for Everyone: The Barnum Effect|url=https://www.psychologytoday.com/blog/sideways-view/201411/weve-got-something-everyone-the-barnum-effect|access-date=25 February 2017|magazine=Psychology Today}}</ref>

Con người sẽ dễ chấp nhận những đánh giá tiêu cực về bản thân hơn nếu họ tin rằng người đưa ra những đánh giá đó là một chuyên gia. Chứng cứ thực nghiệm cho thấy những người độc đoán, bị rối loạn thần kinh chức năng hoặc có nhu cầu chấp nhận lớn hơn bình thường cũng dễ bị hiệu ứng Forer ảnh hưởng hơn.<ref name="Psychology Today2">{{cite magazine|author=Adrian Furnham|date=21 November 2014|title=We've Got Something for Everyone: The Barnum Effect|url=https://www.psychologytoday.com/blog/sideways-view/201411/weve-got-something-everyone-the-barnum-effect|access-date=25 February 2017|magazine=Psychology Today}}</ref>

== Các biến ảnh hưởng đến hiệu ứng ==
Các nghiên cứu cho thấy rằng hiệu ứng Forer cực kỳ phổ biến. Người ta đã ghi nhận tác động của hiệu ứng này ở nhiều người từ nhiều nền văn hoá khác nhau. Năm 2009, hai nhà tâm lý học Paul Rogers và Janice Soule đã thực hiện một nghiên cứu nhằm so sánh hiệu ứng này ở hai nhóm người châu Âu và Trung Quốc. Kết quả cho thấy hầu như không có sự khác biệt nào đáng kể.<ref name="Rogers2009">{{Chú thích tạp chí|last=Rogers|first=Paul|last2=Soule|first2=Janice|date=2009|title=Cross-Cultural Differences in the Acceptance of Barnum Profiles Supposedly Derived From Western Versus Chinese Astrology|journal=Journal of Cross-Cultural Psychology|volume=40|issue=3|pages=381–399|doi=10.1177/0022022109332843}}</ref>

Những nghiên cứu sau này đã cho thấy chủ thể thí nghiệm sẽ thấy các đánh giá chính xác hơn nếu:<ref>{{Chú thích tạp chí|last=Dickson|first=D.H.|last2=Kelly|first2=I.W.|date=1985|title=The 'Barnum Effect' in Personality Assessment: A Review of the Literature|journal=Psychological Reports|volume=57|issue=1|pages=367–382|doi=10.2466/pr0.1985.57.2.367}}</ref>

* Chủ thể tin rằng các đánh giá là dành riêng cho mình, từ đó tự giải nghĩa chúng.<ref name="Rogers2009">{{Chú thích tạp chí|last=Rogers|first=Paul|last2=Soule|first2=Janice|date=2009|title=Cross-Cultural Differences in the Acceptance of Barnum Profiles Supposedly Derived From Western Versus Chinese Astrology|journal=Journal of Cross-Cultural Psychology|volume=40|issue=3|pages=381–399|doi=10.1177/0022022109332843}}</ref>
* Chủ thể tin tưởng thẩm quyền của người đưa ra đánh giá.
* Kết quả phân tích chủ yếu là những đánh giá tích cực.

Cách trình bày hồ sơ tính cách Barnum cũng có ảnh hưởng đến mức độ cá nhân hoá của chủ thể. Ví dụ: những hồ sơ Barnum cá nhân (ghi tên một người cụ thể) thường được đánh giá có độ chính xác cao hơn những hồ sơ tổng quát.<ref>Farley-Icard, Roberta Lynn, "Factors that influence the Barnum Effect: Social desirability, base rates and personalization" (2007). ETD Collection for University of Texas, El Paso. AAI1444101. https://scholarworks.utep.edu/dissertations/AAI1444101</ref>

== Các nghiên cứu gần đây ==

=== Niềm tin vào những điều huyền bí ===
Những đối tượng tin vào tử vi có xu hướng cho rằng những đánh giá chung chung là đặc biệt, dành riêng cho mình. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy bệnh tâm thần phân liệt nhẹ và mức độ bị ảnh hưởng bởi hiệu ứng Forer có sự tương quan khá lớn.<ref name="Claridge 2008 436–444">{{Chú thích tạp chí|last=Claridge|first=G|last2=Clark, K.|last3=Powney, E.|last4=Hassan, E.|date=2008|title=Schizotypy and the Barnum effect|journal=Personality and Individual Differences|volume=44|issue=2|pages=436–444|doi=10.1016/j.paid.2007.09.006}}</ref> Nghiên cứu năm 2009 của Rogers và Soule đã kiểm tra mức độ tin tưởng vào [[chiêm tinh học]] của hai nhóm người. Những người Trung Quốc và châu Âu theo [[chủ nghĩa hoài nghi]] thường nhận thấy tính tổng quát của các đánh giá trong hồ sơ Barnum tốt hơn các đối tượng khác.

=== Thiên kiến tự đề cao ===
[[Thành kiến tự phục vụ|Thiên kiến tự đề cao]] được chứng minh là có thể cản trở hiệu ứng Forer. Vì thiên kiến này, chủ thể sẽ có xu hướng chấp nhận các đánh giá tích cực, và ngược lại. Trong một nghiên cứu, những người tham gia được cung cấp một trong ba bản đánh giá tính cách: một hồ sơ Barnum chỉ có các tính cách tích cực, một bản có cả hai loại đặc điểm tích cực và tiêu cực, hoặc bản thứ ba chỉ gồm những đặc điểm tiêu cực ("lỗi chung").

Hai nhóm đối tượng đầu tiên có kết quả tương đương nhau, và dễ đồng ý với các nhận định hơn so với nhóm thứ ba.

Trong một nghiên cứu khác, những người tham gia được yêu cầu đánh giá mức độ phù hợp của các tính cách trong một danh sách cho sẵn với bản thân. Vì ảnh hưởng của thiên kiến tự đề cao, đa số các đối tượng đã cảm thấy đồng tình với những đặc điểm tích cực và ngược lại. Kết luận nhóm nghiên cứu đưa ra là thiên kiến tự đề cao đủ mạnh để loại bỏ hiệu ứng Forer thông thường.<ref>{{Chú thích tạp chí|last=MacDonald|first=D.J.|last2=Standing, L.G.|date=2002|title=Does self-serving bias cancel the Barnum effect?|journal=Social Behavior and Personality|volume=30|issue=6|pages=625–630|doi=10.2224/sbp.2002.30.6.625}}</ref>

=== Mức độ liên quan của thông tin dấu hiệu chiêm tinh ===
Trong một thí nghiệm năm 1971, Bernie I. Silverman đã yêu cầu các đối tượng thí nghiệm chọn ra 4 bản từ 12 bản đánh giá tính cách phù hợp với họ nhất. Tất cả những đánh giá này đều được tổng hợp từ một bộ số tử vi. Các đối tượng thường chọn những lá số cho cung hoàng đạo của mình; nhưng nếu các ký hiệu bị bỏ đi, xu hướng đó sẽ biến mất.<ref name="Denis Dutton">{{Chú thích web|url=http://www.denisdutton.com/cold_reading.htm|tựa đề=The Cold Reading Technique|tác giả=Dutton|tên=Denis|website=Denis Dutton|nhà xuất bản=Denis Dutton|ngày truy cập=26 February 2017}}</ref>

=== Mức độ liên quan của thông tin ngày sinh ===
Trong một nghiên cứu, [[CR Snyder|C. R. Snyder]] và R. J. Shenkel yêu cầu các sinh viên chuẩn bị các hồ sơ Barnum giống nhau cho một nhóm đối tượng, nhưng được nguỵ tạo thành các lá số tử vi riêng biệt. Những người được phân vào nhóm thứ nhất không bị hỏi gì; nhóm thứ hai được yêu cầu cung cấp tháng sinh, nhóm thứ ba thì phải khai ngày sinh chính xác. Các đối tượng trong nhóm thứ ba dễ cho rằng "lá số tử vi" đúng với họ nhất; xu hướng này ở những người trong nhóm đầu tiên lại thấp nhất.<ref name="Denis Dutton">{{Chú thích web|url=http://www.denisdutton.com/cold_reading.htm|tựa đề=The Cold Reading Technique|tác giả=Dutton|tên=Denis|website=Denis Dutton|nhà xuất bản=Denis Dutton|ngày truy cập=26 February 2017}}</ref>

== Khai thác hiệu ứng ==
Năm 1977, [[Ray Hyman]] đã viết về cách những [[Người bán thách|kẻ bán thách]] khai thác hiệu ứng Forer nhằm lợi dụng nạn nhân ("mục tiêu"). Ông đưa ra một danh sách các yếu tố khiến những kẻ lừa đảo này lừa được con mồi của họ. Ví dụ, những người này sẽ có dễ thành công hơn nếu:

* Cư xử tự tin ("Nếu dáng vẻ và hành động của bạn trông có vẻ hết sức tin tưởng vào những gì đang làm, bạn sẽ có thể thu được tiền từ hầu hết khách hàng, dù những gì bạn nói có sai lệch đến đâu đi nữa."),
* "Sử dụng các bản tóm tắt thống kê, thăm dò ý kiến, khảo sát mới nhất một cách sáng tạo" nhằm cho thấy "những tầng lớp khác nhau trong xã hội tin, làm, muốn, lo lắng về điều gì...".
* Sử dụng "các mẹo thu hút chú ý như cầu pha lê, bài tarot hoặc đọc chỉ tay"
* Đoán được một số điều về khách hàng từ những chi tiết như "quần áo, đồ trang sức, cách cư xử và cách ăn nói", nếu họ không sợ "hở sườn".
* Biết cách tâng bốc.<ref name="Psychology Today2">{{cite magazine|author=Adrian Furnham|date=21 November 2014|title=We've Got Something for Everyone: The Barnum Effect|url=https://www.psychologytoday.com/blog/sideways-view/201411/weve-got-something-everyone-the-barnum-effect|access-date=25 February 2017|magazine=Psychology Today}}</ref>

Một Giáo sư Tâm lý học tại [[Đại học Bang California, Fullerton]], [[Michael H. Birnbaum|Michael Birnbaum]], cho rằng những người lợi dụng hiệu ứng Forer gồm có các [[Phép thuật|pháp sư]], [[nhà ngoại cảm]] (khi [[Đọc nguội|''đọc nguội'']]), và một những nhân vật truyền hình khẳng định rằng hiểu biết và các phương pháp phân tâm học có thể giúp họ biết được vấn đề tâm lý của khách mời chỉ trong vài phút. Ông nói: “Các nhà tâm lý học thực thụ cảm thấy kinh hoàng vì điều này”, nhưng lại không thể công khai chỉ trích đủ mạnh, và vì vậy, những lợi dụng hiệu ứng Forer vẫn được tôn trọng dù không xứng đáng.<ref name="California State University, Fullerton">{{Chú thích web|url=http://psych.fullerton.edu/mbirnbaum/psych101/barnum_demo.htm|tựa đề=The Barnum Effect|nhà xuất bản=California State University, Fullerton|ngày truy cập=28 February 2017}}</ref> Năm 1988, Denis Dutton viết: “Đáng tiếc là tâm lý học hàn lâm không mấy chú ý đến kỹ thuật đọc nguội”. Ông cũng tin rằng "thành công rộng lớn của phương pháp đọc nguội đã hình thành cơ sở cho phần lớn niềm tin vào huyền bí trong xã hội ngày nay". Vì các nhà tâm lý học hàn lâm thường chỉ tập trung vào các nghiên cứu về sinh viên, Dutton đã kêu gọi "phân tích các kỹ thuật và phương pháp thực tế của những chuyên gia đọc nguội".<ref name="Denis Dutton">{{Chú thích web|url=http://www.denisdutton.com/cold_reading.htm|tựa đề=The Cold Reading Technique|tác giả=Dutton|tên=Denis|website=Denis Dutton|nhà xuất bản=Denis Dutton|ngày truy cập=26 February 2017}}<cite class="citation web cs1" data-ve-ignore="true" id="CITEREFDutton">Dutton, Denis. [http://www.denisdutton.com/cold_reading.htm "The Cold Reading Technique"]. ''Denis Dutton''. Denis Dutton<span class="reference-accessdate">. Retrieved <span class="nowrap">26 February</span> 2017</span>.</cite></ref>

Một bài báo năm 2016 đã giải thích cách sử dụng hiệu ứng Forer để kiếm khách cho các nhân viên marketing. Nội dung chính của bài này là việc "sử dụng những lời tâng bốc".<ref name="Jeremy Said">{{Chú thích web|url=https://www.jeremysaid.com/blog/the-forer-effect-how-to-convert-your-customers-with-flattery/|tựa đề=The Forer Effect: A Little Flattery Will Help Your Customers Believe – and Convert|tác giả=Smith|tên=Jeremy|ngày=2016-03-03|website=Jeremy Said|nhà xuất bản=Jeremy Said|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20170228173533/https://www.jeremysaid.com/blog/the-forer-effect-how-to-convert-your-customers-with-flattery/|ngày lưu trữ=28 February 2017|ngày truy cập=28 February 2017}}</ref>{{Nguồn tự xuất bản}}{{Cần nguồn tốt hơn|date=March 2020}}

Birnbaum nói: “Bài học rút ra từ Phương pháp Barnum: tự xác nhận không phải là xác nhận. Đừng để mấy tay ngoại cảm, trị liệu tâm lý đểu, hay chữa bệnh bằng đức tin ảo tưởng dùng thủ thuật này lừa bạn. Hãy biết hoài nghi và đòi hỏi bằng chứng. Hãy giữ tiền trong ví, ví trong túi và tay trên ví."<ref name="California State University, Fullerton">{{Chú thích web|url=http://psych.fullerton.edu/mbirnbaum/psych101/barnum_demo.htm|tựa đề=The Barnum Effect|nhà xuất bản=California State University, Fullerton|ngày truy cập=28 February 2017}}<cite class="citation web cs1" data-ve-ignore="true">[http://psych.fullerton.edu/mbirnbaum/psych101/barnum_demo.htm "The Barnum Effect"]. California State University, Fullerton<span class="reference-accessdate">. Retrieved <span class="nowrap">28 February</span> 2017</span>.</cite></ref>

== Tham khảo ==

== Liên kết ngoài ==

* [https://www.scribd.com/doc/17378132/The-Fallacy-of-Personal-Validation-a-Classroom-Demonstration-of-Gullibility Nguỵ biện xác nhận cá nhân: Bertram R. Forer minh hoạ tính cả tin (toàn văn)]
* [http://www.skepdic.com/forer.html Từ điển hoài nghi: Hiệu ứng Forer]
[[Thể loại:Thể loại:Thiên kiến nhận thức]]
[[Thể loại:Thể loại:Lịch sử chiêm tinh học]]

Phiên bản lúc 02:28, ngày 12 tháng 5 năm 2021

Hiệu ứng Barnum (còn được gọi là hiệu ứng Forer hoặc hiệu ứng Barnum – Forer) là hiện tượng các cá nhân đánh giá cao những mô tả riêng về tính cách họ, nhưng thực ra lại không cụ thể và áp dụng được cho nhiều người.[1] Hiệu ứng này có thể giải thích một phần cho sự phổ biến của những niềm tin và hành vi huyền bí như chiêm tinh, bói toán, đọc hào quang và một số bài kiểm tra tính cách.[2]

Những tay lừa đảo chuyên nghiệp thường lợi dụng đặc điểm này để thuyết phục các nạn nhân rằng họ có những tài năng huyền bí. Vì những lời tự nhận này không rõ ràng, các nạn nhân sẽ tự giải nghĩa, từ đó "cá nhân" hoá các nhận định. Ngoài ra, các cá nhân có nhiều khả năng chấp nhận các đánh giá tiêu cực về bản thân nếu họ cho rằng người trình bày bản đánh giá là một chuyên gia có địa vị cao.

Thuật ngữ "Hiệu ứng Barnum" lần đầu được sử dụng trong bài tiểu luận Wanted - A Good Cookbook bởi nhà tâm lý học Paul Meehl. Ông dùng cụm từ này vì thấy có sự tương đồng giữa những nhận định tính cách mơ hồ trong các bài kiểm tra tâm lý "giả thành công" và những màn trình diễn của Phineas Barnum.[3][4]

Tổng quan

"nhận định Barnum", có nghĩa là các tính chất chung được gán cho một cá nhân được coi là đúng với chúng, dù c. Kỹ thuật lợi dụng hiệu ứng này được các thầy bói, chiêm tinh gia và những kẻ lừa đảo khác sử dụng nhằm thuyết phục nạn nhân rằng chúng được ban tặng tài năng huyền bí.[5] Hiệu ứng Forer là một ví dụ cụ thể cho "hiện tượng chấp nhận". Hiện tượng này mô tả xu hướng chung "chấp nhận hầu hết các nhận định tính cách không có thực."[6] Một hiện tượng khác có liên quan, nhưng tổng quát hơn, là sự xác nhận chủ quan.[7] Người ta xác nhận chủ quan khi coi hai sự kiện tách biệt, hoặc hoàn toàn ngẫu nhiên liên quan đến nhau vì niềm tin, kỳ vọng hoặc một giả thuyết đòi hỏi sự liên kết. Ví dụ, khi đọc tử vi, họ sẽ tự chủ động tìm kiếm sự tương đồng giữa các tiên đoán và nhận thức của riêng họ về tính cách.

Những nghiên cứu đầu tiên

Năm 1947, nhà tâm lý học Ross Stagner đã cho một số quản lý nhân sự làm một bài kiểm tra tính cách cá nhân. Dù vậy, sau khi thu bài, ông lại đưa họ cùng một bản đánh giá chung lấy từ những lá số tử vi hoàng đạo, phân tích bút tích học... Các đối tượng cũng được yêu cầu mức độ chính xác của những nhận định đó. Hơn một nửa trong số họ đã thấy rằng kết quả đó là khá chính xác, và gần như không có ai nói bản đánh giá sai.[8][9]

Năm 1948, trong một "thí nghiệm kiểu cổ điển",[10] nhà tâm lý học Bertram R. Forer đã cho 39 sinh viên của ông làm một bài kiểm tra tâm lý tên là "Chẩn đoán Khoảng trống trong Sở thích", và nói họ sẽ nhận được những đánh giá cho riêng mình. Một tuần sau, ông đưa cho mỗi người một bản phân tích và yêu cầu họ đánh giá mức độ chính xác. Trên thực tế, họ nhận được cùng một kết quả:[11]

  1. Bạn có nhu cầu được yêu thích và ngưỡng mộ rất lớn.
  2. Bạn có xu hướng chỉ trích bản thân
  3. Bạn có tiềm năng rất lớn nhưng lại chưa được khai thác.
  4. Dù có một số nhược điểm trong tính cách, nhưng bạn vẫn có thể che lấp khá hiệu quả.
  5. Mức điều chỉnh tình dục của bạn có vấn đề.
  6. Dù bên ngoài bạn là người có kỷ luật, biết tự chủ, bạn lại thường hay lo lắng và bất an.
  7. Nhiều khi bạn vẫn nghi ngờ những quyết định trước đây, không biết liệu mình đã làm đúng hay chưa.
  8. Bạn thích có một số thay đổi nhất định, ghét bị kiểm soát, luật lệ và quy tắc.
  9. Bạn tự hào rằng bản thân là một người có lối suy nghĩ độc lập, không dễ đồng ý với người khác mà không có luận cứ đầy đủ.
  10. Bạn cho rằng không nên quá cởi mở với người khác.
  11. Có những lúc bạn hướng ngoại, cởi mở, hoà đồng, nhưng cũng nhiều khi bạn hướng nội, cẩn trọng và kín đáo.
  12. Bạn có một số khát vọng không thực tế.
  13. Bạn coi bảo mật là một trong những mục tiêu lớn nhất của mình.

Các đối tượng thí nghiệm đã đánh giá những nhận định chung chung trên có độ chính xác lên tới 4.3 trên thang điểm 5. Họ chỉ được biết mình được phát cùng một bản phân tích sau khi đã nộp lại kết quả đánh giá. Forer đã tổng hợp 13 mệnh đề trong bản phân tích trên từ một quyển sách chiêm tinh bán ở sạp báo.[11] Những nhận định đó rất tổng quát, mơ hồ và có thể áp dụng cho hầu hết mọi người.

Forer tin rằng đây là hệ quả của sự cả tin.[12] Hiệu ứng này được cho là đã xác nhận "nguyên tắc Pollyanna". Theo nguyên tắc này, người ta có xu hướng "chấp nhận những phản hồi tích cực nhiều hơn so với tiêu cực."[8]

Tái hiện nghiên cứu

Theo các nghiên cứu tái hiện, có hai yếu tố đóng vai trò quan trọng khi tạo ra hiệu ứng Forer. Yếu tố đầu tiên là nội dung đánh giá và tỷ lệ đánh giá tích cực/tiêu cực. Yếu tố còn lại là niềm tin của chủ thể vào sự chân thành của người cung cấp nội dung đó.[13][14] Năm 2011, một nghiên cứu tái hiện khác đã sử dụng các nhận định áp dụng cho các tổ chức nhiều hơn cá nhân. Kết quả của thí nghiệm này cũng không khác so với các thí nghiệm trước. Kết luận được đưa ra là các đối tượng đã nhân hóa những tổ chức và dễ bị lừa khi diễn giải tính cách bản thân.[15]

Khi các đánh giá đủ mơ hồ, hiệu ứng Forer gần như chắc chắn sẽ xảy ra. Người ta sẽ đọc ra những ý nghĩa của riêng mình từ những đánh giá đó, khiến chúng trở nên "cá nhân" hơn. Những đánh giá hiệu quả nhất thường có cụm từ "có những lúc", chẳng hạn như "Có những lúc bạn cảm thấy vô cùng chắc chắn, nhưng cũng có khi bạn lại không được tự tin bằng." Cụm này có thể áp dụng cho gần như tất cả mọi người; do đó, họ đều sẽ có thể đọc ra được một ý nghĩa "cá nhân". Trong các thí nghiệm tái hiện, những đánh giá mơ hồ như vậy sẽ khiến hiệu ứng Forer chắc chắn xảy ra.[16]

Con người sẽ dễ chấp nhận những đánh giá tiêu cực về bản thân hơn nếu họ tin rằng người đưa ra những đánh giá đó là một chuyên gia. Chứng cứ thực nghiệm cho thấy những người độc đoán, bị rối loạn thần kinh chức năng hoặc có nhu cầu chấp nhận lớn hơn bình thường cũng dễ bị hiệu ứng Forer ảnh hưởng hơn.[8]

Các biến ảnh hưởng đến hiệu ứng

Các nghiên cứu cho thấy rằng hiệu ứng Forer cực kỳ phổ biến. Người ta đã ghi nhận tác động của hiệu ứng này ở nhiều người từ nhiều nền văn hoá khác nhau. Năm 2009, hai nhà tâm lý học Paul Rogers và Janice Soule đã thực hiện một nghiên cứu nhằm so sánh hiệu ứng này ở hai nhóm người châu Âu và Trung Quốc. Kết quả cho thấy hầu như không có sự khác biệt nào đáng kể.[17]

Những nghiên cứu sau này đã cho thấy chủ thể thí nghiệm sẽ thấy các đánh giá chính xác hơn nếu:[18]

  • Chủ thể tin rằng các đánh giá là dành riêng cho mình, từ đó tự giải nghĩa chúng.[17]
  • Chủ thể tin tưởng thẩm quyền của người đưa ra đánh giá.
  • Kết quả phân tích chủ yếu là những đánh giá tích cực.

Cách trình bày hồ sơ tính cách Barnum cũng có ảnh hưởng đến mức độ cá nhân hoá của chủ thể. Ví dụ: những hồ sơ Barnum cá nhân (ghi tên một người cụ thể) thường được đánh giá có độ chính xác cao hơn những hồ sơ tổng quát.[19]

Các nghiên cứu gần đây

Niềm tin vào những điều huyền bí

Những đối tượng tin vào tử vi có xu hướng cho rằng những đánh giá chung chung là đặc biệt, dành riêng cho mình. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy bệnh tâm thần phân liệt nhẹ và mức độ bị ảnh hưởng bởi hiệu ứng Forer có sự tương quan khá lớn.[13] Nghiên cứu năm 2009 của Rogers và Soule đã kiểm tra mức độ tin tưởng vào chiêm tinh học của hai nhóm người. Những người Trung Quốc và châu Âu theo chủ nghĩa hoài nghi thường nhận thấy tính tổng quát của các đánh giá trong hồ sơ Barnum tốt hơn các đối tượng khác.

Thiên kiến tự đề cao

Thiên kiến tự đề cao được chứng minh là có thể cản trở hiệu ứng Forer. Vì thiên kiến này, chủ thể sẽ có xu hướng chấp nhận các đánh giá tích cực, và ngược lại. Trong một nghiên cứu, những người tham gia được cung cấp một trong ba bản đánh giá tính cách: một hồ sơ Barnum chỉ có các tính cách tích cực, một bản có cả hai loại đặc điểm tích cực và tiêu cực, hoặc bản thứ ba chỉ gồm những đặc điểm tiêu cực ("lỗi chung").

Hai nhóm đối tượng đầu tiên có kết quả tương đương nhau, và dễ đồng ý với các nhận định hơn so với nhóm thứ ba.

Trong một nghiên cứu khác, những người tham gia được yêu cầu đánh giá mức độ phù hợp của các tính cách trong một danh sách cho sẵn với bản thân. Vì ảnh hưởng của thiên kiến tự đề cao, đa số các đối tượng đã cảm thấy đồng tình với những đặc điểm tích cực và ngược lại. Kết luận nhóm nghiên cứu đưa ra là thiên kiến tự đề cao đủ mạnh để loại bỏ hiệu ứng Forer thông thường.[20]

Mức độ liên quan của thông tin dấu hiệu chiêm tinh

Trong một thí nghiệm năm 1971, Bernie I. Silverman đã yêu cầu các đối tượng thí nghiệm chọn ra 4 bản từ 12 bản đánh giá tính cách phù hợp với họ nhất. Tất cả những đánh giá này đều được tổng hợp từ một bộ số tử vi. Các đối tượng thường chọn những lá số cho cung hoàng đạo của mình; nhưng nếu các ký hiệu bị bỏ đi, xu hướng đó sẽ biến mất.[10]

Mức độ liên quan của thông tin ngày sinh

Trong một nghiên cứu, C. R. Snyder và R. J. Shenkel yêu cầu các sinh viên chuẩn bị các hồ sơ Barnum giống nhau cho một nhóm đối tượng, nhưng được nguỵ tạo thành các lá số tử vi riêng biệt. Những người được phân vào nhóm thứ nhất không bị hỏi gì; nhóm thứ hai được yêu cầu cung cấp tháng sinh, nhóm thứ ba thì phải khai ngày sinh chính xác. Các đối tượng trong nhóm thứ ba dễ cho rằng "lá số tử vi" đúng với họ nhất; xu hướng này ở những người trong nhóm đầu tiên lại thấp nhất.[10]

Khai thác hiệu ứng

Năm 1977, Ray Hyman đã viết về cách những kẻ bán thách khai thác hiệu ứng Forer nhằm lợi dụng nạn nhân ("mục tiêu"). Ông đưa ra một danh sách các yếu tố khiến những kẻ lừa đảo này lừa được con mồi của họ. Ví dụ, những người này sẽ có dễ thành công hơn nếu:

  • Cư xử tự tin ("Nếu dáng vẻ và hành động của bạn trông có vẻ hết sức tin tưởng vào những gì đang làm, bạn sẽ có thể thu được tiền từ hầu hết khách hàng, dù những gì bạn nói có sai lệch đến đâu đi nữa."),
  • "Sử dụng các bản tóm tắt thống kê, thăm dò ý kiến, khảo sát mới nhất một cách sáng tạo" nhằm cho thấy "những tầng lớp khác nhau trong xã hội tin, làm, muốn, lo lắng về điều gì...".
  • Sử dụng "các mẹo thu hút chú ý như cầu pha lê, bài tarot hoặc đọc chỉ tay"
  • Đoán được một số điều về khách hàng từ những chi tiết như "quần áo, đồ trang sức, cách cư xử và cách ăn nói", nếu họ không sợ "hở sườn".
  • Biết cách tâng bốc.[8]

Một Giáo sư Tâm lý học tại Đại học Bang California, Fullerton, Michael Birnbaum, cho rằng những người lợi dụng hiệu ứng Forer gồm có các pháp sư, nhà ngoại cảm (khi đọc nguội), và một những nhân vật truyền hình khẳng định rằng hiểu biết và các phương pháp phân tâm học có thể giúp họ biết được vấn đề tâm lý của khách mời chỉ trong vài phút. Ông nói: “Các nhà tâm lý học thực thụ cảm thấy kinh hoàng vì điều này”, nhưng lại không thể công khai chỉ trích đủ mạnh, và vì vậy, những lợi dụng hiệu ứng Forer vẫn được tôn trọng dù không xứng đáng.[21] Năm 1988, Denis Dutton viết: “Đáng tiếc là tâm lý học hàn lâm không mấy chú ý đến kỹ thuật đọc nguội”. Ông cũng tin rằng "thành công rộng lớn của phương pháp đọc nguội đã hình thành cơ sở cho phần lớn niềm tin vào huyền bí trong xã hội ngày nay". Vì các nhà tâm lý học hàn lâm thường chỉ tập trung vào các nghiên cứu về sinh viên, Dutton đã kêu gọi "phân tích các kỹ thuật và phương pháp thực tế của những chuyên gia đọc nguội".[10]

Một bài báo năm 2016 đã giải thích cách sử dụng hiệu ứng Forer để kiếm khách cho các nhân viên marketing. Nội dung chính của bài này là việc "sử dụng những lời tâng bốc".[22][nguồn tự xuất bản][cần nguồn tốt hơn]

Birnbaum nói: “Bài học rút ra từ Phương pháp Barnum: tự xác nhận không phải là xác nhận. Đừng để mấy tay ngoại cảm, trị liệu tâm lý đểu, hay chữa bệnh bằng đức tin ảo tưởng dùng thủ thuật này lừa bạn. Hãy biết hoài nghi và đòi hỏi bằng chứng. Hãy giữ tiền trong ví, ví trong túi và tay trên ví."[21]

Tham khảo

Liên kết ngoài

  1. ^ “Barnum Effect | psychology”. Encyclopedia Britannica (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2018.
  2. ^ “The Barnum Effect”. Seeking Alpha. Seeking Alpha. 4 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2017.
  3. ^ Meehl, Paul E. (1956). “Wanted – A Good Cookbook”. American Psychologist. 11 (6): 263–272. doi:10.1037/h0044164.
  4. ^ Dutton, D. L. (1988). “The cold reading technique”. Experientia (bằng tiếng Anh). 44 (4): 326–332. doi:10.1007/BF01961271. PMID 3360083. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2012.
  5. ^ Carroll, Robert. “Barnum effect”. The Skeptic's Dictionary. The Skeptic's Dictionary. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2017.
  6. ^ Tobacyk, Jerome; Milford, Gary; Springer, Thomas; Tobacyk, Zofia (10 tháng 6 năm 2010). “Paranormal Beliefs and the Barnum Effect”. Journal of Personality Assessment. 52 (4): 737–739. doi:10.1207/s15327752jpa5204_13.
  7. ^ Marks, David F. (2000). The Psychology of the Psychic (ấn bản 2). Amherst, NY: Prometheus Books. tr. 41. ISBN 978-1-57392-798-7.
  8. ^ a b c d Adrian Furnham (21 tháng 11 năm 2014). “We've Got Something for Everyone: The Barnum Effect”. Psychology Today. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2017.
  9. ^ Stagner, Ross (1 tháng 9 năm 1958). “The Gullibility of Personnel Managers”. Personnel Psychology (bằng tiếng Anh). 11 (3): 347–352. doi:10.1111/j.1744-6570.1958.tb00022.x. ISSN 1744-6570.
  10. ^ a b c d Dutton, Denis. “The Cold Reading Technique”. Denis Dutton. Denis Dutton. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2017. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “Denis Dutton” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  11. ^ a b Forer, B.R. (1949). “The fallacy of personal validation: A classroom demonstration of gullibility” (PDF). Journal of Abnormal and Social Psychology. 44 (1): 118–123. doi:10.1037/h0059240. PMID 18110193. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2016.
  12. ^ “The Barnum Demonstration”. psych.fullerton.edu. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2018.
  13. ^ a b Claridge, G; Clark, K.; Powney, E.; Hassan, E. (2008). “Schizotypy and the Barnum effect”. Personality and Individual Differences. 44 (2): 436–444. doi:10.1016/j.paid.2007.09.006.
  14. ^ Rutledge, Brett (2012). “Something for Everyone – The Barnum Effect”. The Articulate CEO. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2012.
  15. ^ Nolan, Stuart (2012). “Gullibility or Vulnerability?”. TEDxSalford. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2013.
  16. ^ Adrian Furnham (21 tháng 11 năm 2014). “We've Got Something for Everyone: The Barnum Effect”. Psychology Today. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2017.
  17. ^ a b Rogers, Paul; Soule, Janice (2009). “Cross-Cultural Differences in the Acceptance of Barnum Profiles Supposedly Derived From Western Versus Chinese Astrology”. Journal of Cross-Cultural Psychology. 40 (3): 381–399. doi:10.1177/0022022109332843.
  18. ^ Dickson, D.H.; Kelly, I.W. (1985). “The 'Barnum Effect' in Personality Assessment: A Review of the Literature”. Psychological Reports. 57 (1): 367–382. doi:10.2466/pr0.1985.57.2.367.
  19. ^ Farley-Icard, Roberta Lynn, "Factors that influence the Barnum Effect: Social desirability, base rates and personalization" (2007). ETD Collection for University of Texas, El Paso. AAI1444101. https://scholarworks.utep.edu/dissertations/AAI1444101
  20. ^ MacDonald, D.J.; Standing, L.G. (2002). “Does self-serving bias cancel the Barnum effect?”. Social Behavior and Personality. 30 (6): 625–630. doi:10.2224/sbp.2002.30.6.625.
  21. ^ a b “The Barnum Effect”. California State University, Fullerton. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2017. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “California State University, Fullerton” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  22. ^ Smith, Jeremy (3 tháng 3 năm 2016). “The Forer Effect: A Little Flattery Will Help Your Customers Believe – and Convert”. Jeremy Said. Jeremy Said. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2017.