1989 (album)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
1989
Ảnh bìa album 1989 của Taylor Swift, trong đó là bức hình chụp Polaroid Swift từ phần mũi trở xuống. Cô tô đôi môi màu son đỏ và mặc chiếc áo len lavender tay dài có in hình chụp những con mòng biển đang bay lượn trên bầu trời xanh thẳm.
Bìa phiên bản tiêu chuẩn tại Bắc Mỹ
Album phòng thu của Taylor Swift
Phát hành27 tháng 10 năm 2014 (2014-10-27)
Phòng thu
Thể loạiSynth-pop
Thời lượng48:41
Hãng đĩaBig Machine
Sản xuất
Thứ tự album của Taylor Swift
Red
(2012)
1989
(2014)
Reputation
(2017)
Đĩa đơn từ 1989
  1. "Shake It Off"
    Phát hành: 19 tháng 8 năm 2014
  2. "Blank Space"
    Phát hành: 10 tháng 11 năm 2014
  3. "Style"
    Phát hành: 9 tháng 2 năm 2015
  4. "Bad Blood"
    Phát hành: 17 tháng 5 năm 2015
  5. "Wildest Dreams"
    Phát hành: 31 tháng 8 năm 2015
  6. "Out of the Woods"
    Phát hành: 19 tháng 1 năm 2016
  7. "New Romantics"
    Phát hành: 23 tháng 2 năm 2016

1989 là album phòng thu thứ năm của nữ ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác bài hát người Mỹ Taylor Swift, được hãng đĩa Big Machine Records phát hành vào ngày 27 tháng 10 năm 2014. Swift sáng tác album nhờ vào cảm hứng thể loại nhạc synth-pop bắt nguồn từ những năm thập niên 1980. Cô quyết định thực hiện bước chuyển đổi nghệ thuật sang nhạc pop hoàn toàn, sau khi bị giới chuyên môn bắt bẻ về hình tượng nhạc sĩ đồng quê. Nguyên nhân là do Swift đã từng phát hành và quảng bá Red (2012), một album vốn hòa trộn với nhiều thể loại âm nhạc khác nhau, lên đài phát thanh đồng quê. Nhằm phục hồi biểu tượng nghệ thuật trong âm nhạc của bản thân, Swift lấy tên album theo chính năm sinh của cô. Nữ ca sĩ mời lại nhạc sĩ kiêm nhà sản xuất âm nhạc Max Martin trước đó đã sáng tác các bản thiên hướng nhạc điện tử trong Red, và đưa ông làm đồng điều hành nhà sản xuất cho 1989.

Quá trình thu âm các bài hát cho 1989 được diễn ra ở nhiều phòng thu khắp Hoa Kỳ, Vương quốc Anh và Thụy Điển. Đội ngũ nhà sản xuất của album gồm có Martin, Shellback, Jack Antonoff, Ryan Tedder, Nathan ChapmanImogen Heap. Phần nhạc khí synth-pop trong 1989 mang âm thanh đặc trưng của synthesizer sôi động, máy đánh trống được lập trình và giọng hát nền được xử lý bằng các yếu tố thể loại điện tử, đối nghịch rõ rệt so với phần biên khúc acoustic trong những album trước đó của Swift. Mỗi bài hát trong 1989 đều khai mở phong cách nghệ thuật sáng tác tự truyện của Swift cũng như mang đề tài mối tình lãng mạn thất bại dưới góc nhìn vui vẻ dịu dàng của nữ ca sĩ.

Swift và Big Machine quảng bá 1989 trên nhiều phương tiện truyền thông và album đã đạt được vô vàn thành công về mặt thương mại, bất chấp đã từng bị nữ ca sĩ rút khỏi các dịch vụ phát nhạc trực tuyến dẫn đến nhiều cuộc tranh cãi trong ngành công nghiệp âm nhạc về tác động của phát nhạc trực tuyến. Nhằm quảng bá album rộng rãi, Swift thực hiện chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới The 1989 World Tour và lập thành tích trở thành nghệ sĩ có doanh thu lưu diễn cao nhất năm 2015. Xuyên suốt bảy đĩa đơn được phát hành, có ba đĩa đơn trong 1989 đứng đầu bảng xếp hạng Billboard Hot 100 tại Hoa Kỳ gồm "Shake It Off", "Blank Space" và "Bad Blood". 1989 dành ra tổng cộng 11 tuần đứng đầu Billboard 200 và được Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) chứng nhận đĩa 9× Bạch kim. Nhạc phẩm đã tẩu tán tổng cộng 14 triệu bản trên toàn thế giới và đạt chứng nhận đa Bạch kim ở nhiều quốc gia.

Nhìn chung lúc mới ra mắt, giới phê bình âm nhạc đều khen ngợi chất nhạc của 1989 là bắt tai và họ cảm nhận được sự gắn kết về mặt cảm xúc trong sáng tác của nhạc phẩm. Tuy vậy, một số cây bút lại cảm thấy việc giai điệu synth-pop đã làm xói mòn tính toàn vẹn về mặt nghệ thuật của Swift. Lời phê bình ấy về sau được các nhà báo và học giả nhìn nhận là đến từ những người theo chủ nghĩa nhạc rock. 1989 đoạt giải Album của nămAlbum giọng pop xuất sắc nhất tại giải Grammy vào năm 2016, và được các ấn phẩm như Rolling StoneConsequence đặt vào danh sách xếp hạng album mọi thời đại. Mặc dù các chuyên gia và học giả đã công nhận 1989 là một album đã giúp Swift chuyển mình sang một biểu tượng nhạc pop và lan tỏa chủ nghĩa nhạc pop lạc quan, nhưng họ cũng chỉ ra rằng album đã thu hút nhiều ánh mắt giám sát của giới truyền thông về phía nữ ca sĩ nhiều hơn. Sau sự việc tranh chấp quyền sở hữu tác phẩm vào năm 2019, Swift đã quyết định tái thu âm 1989 và phát hành với tên gọi 1989 (Taylor's Version) vào ngày 27 tháng 10 năm 2023.

Bối cảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Swift bắt đầu sáng tác 1989 trong thời gian lưu diễn The Red Tour (ảnh) vào cuối năm 2013.

Taylor Swift luôn được nhiều người nhìn nhận là một nhạc sĩ đồng quê cho đến khi nữ ca sĩ phát hành album phòng thu thứ tư, Red, vào ngày 22 tháng 10 năm 2012.[1][2][3] Cô đã bổ sung thêm thể loại pop chiết trung với rock trong Red, làm cho album trở nên khác lạ so với phong cách đồng quê trong những album trước đây.[1] Thông qua quá trình hợp tác với các nhà sản xuất nhạc pop người Thụy Điển Max MartinShellback, công trình sáng tác nhạc của Swift đã góp mặt thêm phần hook thiên hướng pop cũng như những thể loại mới như EDMdubstep.[4][5] Dẫu vậy, Swift và hãng đĩa Big Machine vẫn quảng bá Red là album nhạc đồng quê.[6][7] Chính vì Red mang nhiều màu sắc âm nhạc nên đã khiến cho giới phê bình bắt bẻ và tranh cãi gay gắt về chuyện hình tượng nghệ sĩ nhạc đồng quê của Swift, và nữ ca sĩ đã lên tiếng trong một cuộc phỏng vấn với The Wall Street Journal rằng, "Tôi để cho người ta mặc sức gắn thể loại."[8]

Ngoài ra, Swift còn được biết đến rộng rãi với biệt danh "cục cưng nước Mỹ" nhờ vào hình tượng cô gái hàng xóm lành mạnh và thực tế.[9][10] Tuy nhiên, do tình sử hợp tan với hàng loạt bạn trai có tên tuổi trong ngành giải trí nên cô thường xuyên bị nhiều người bôi bác gây ảnh hưởng đến danh tiếng. The New York Times khẳng định vào năm 2013 rằng "lịch sử hẹn hò [của Swift] đã khuấy động một thứ được gọi là sự khởi đầu của phản ứng dữ dội" và đặt ra câu hỏi rằng liệu Swift có đang trải qua khủng hoảng một phần tư cuộc đời hay không.[11] Tampa Bay Times nhận thấy rằng trước khi có 1989, đời sống tình cảm của Swift đã trở thành chủ đề được báo lá cải thường xuyên quan tâm và khiến cho khả năng âm nhạc của cô trở nên mờ nhạt do điều đó.[10]

Swift không thích bị giới truyền thông gọi là một "kẻ hẹn hò hàng loạt". Cô cảm thấy rằng hành động đó đã nhấn chìm công việc chuyên môn của cô và khiến cô trở nên khó xử trước việc đời tư bị công chúng bàn tán.[12][13] Sự soi mói từ các tờ báo lá cải về hình tượng của Swift đã thôi thúc cô sáng tác nên những bài hát cho album kế tiếp nhằm châm biếm về hình ảnh mà người khác nhìn nhận về cô, bên cạnh những nét lãng mạn cổ điển của nữ ca sĩ.[14] Vào tháng 3 năm 2014, Swift chuyển nhà từ Nashville sang thành phố New York.[15] Cô tường thuật rằng việc di dời nơi ở trong lúc không bị tình cảm làm ảnh hưởng đến cuộc sống đã giúp cô có thêm nhiều ý tưởng mới cho album,[13][16] không chỉ riêng câu chuyện truyền thông đeo bám.[17]

Cảm hứng sáng tác[sửa | sửa mã nguồn]

Peter Gabriel mặc áo sơ mi xanh, hát micro trong khi giơ một nắm tay lên trời
Annie Lennox vừa biểu diễn đàn piano vừa mỉm cười
Các nghệ sĩ thập niên 1980 như Peter Gabriel (trái)Annie Lennox (phải) truyền cảm hứng cho Swift sáng tác 1989.[14]

Swift bắt đầu sáng tác album phòng thu thứ năm của cô vào giữa năm 2013, chưa đầy 8 tháng sau khi ra mắt Red và trong lúc vẫn còn đang thực hiện chuyến lưu diễn The Red Tour.[18][19] Cô nhấn mạnh điểm khác biệt của sản phẩm sắp tới so với Red rằng, "Tôi nghĩ mục tiêu của album kế đến là tiếp tục thay đổi và không bao giờ giống nhau hai lần [...] đây chắc chắn là điều mới lạ hơn bất kỳ thứ gì tôi từng thực hiện."[19] Quá trình sáng tác cho 1989 diễn ra một cách tự nhiên và kéo dài trong hai năm.[20] Theo Swift, những bản nhạc sáng tác trong năm đầu tiên đều bị hủy bỏ vì chỉ những bài hát sáng tác năm thứ hai mới định hình nên tác phẩm cuối cùng.[18] Tính đến tháng 10 năm 2013, Swift đã trải qua sáu tháng chuyên tâm phát triển sự nghiệp sáng tác.[19] Một tháng sau, cô chia sẻ "có từ bảy đến tám [bài hát] mà tôi biết chắc mình muốn trong bản thu âm [...] chúng đều mang âm thanh mới và đó là tất cả những gì tôi mong đợi."[20]

Swift nhìn nhận Red là một album nhập nhằng giữa thể loại đồng quê và thể loại pop. Do vậy, nữ ca sĩ quyết định theo đuổi một nhạc phẩm "pop hoàn toàn" và nói bóng gió rằng "nếu như bạn cố bắt hai con thỏ thì bạn sẽ để cho hai chúng nó chạy mất."[12] Chủ tịch hãng đĩa Big Machine, ông Scott Borchetta, lúc đầu còn mơ hồ trước quyết định của Swift và ra sức thuyết phục cô thu âm thêm một vài bài hát đồng quê bằng những nhạc cụ như fiddle, nhưng cô đã từ chối lời đề nghị đó.[21] Về sau, Borchetta cũng chiều theo ý nữ ca sĩ là không quảng bá album lên đài phát thanh nhạc đồng quê khi cho rằng "người hâm mộ của Swift sẽ yêu thích nó", và hành động này đã góp phần thúc đẩy bước tiến mới cho sự nghiệp của Swift.[22][23]

Swift đã lấy cảm hứng thể loại synth-pop đến từ những năm thập niên 1980. Đây là giai đoạn mà nữ ca sĩ nhìn nhận là một "triều đại thử nghiệm trong nhạc pop", và thời đó các nhạc sĩ đã từ bỏ lối phối khí bằng "trống–guitar–bass–bất cứ thứ gì" được gây dựng sẵn để chuyển sang sáng tác bài hát bằng nhạc cụ đàn tổng hợp âm synthesizer, bộ trống drum pad và giọng hát được xếp chồng thành nhiều lớp.[chú thích 1][25][26] Swift đã chọn hai nhạc sĩ Annie LennoxPeter Gabriel để làm cảm hứng sáng tác cho tác phẩm 1989. Cô đặc biệt ngưỡng mộ trước cách Lennox truyền tải tâm tư "mãnh liệt" bằng âm nhạc của bà cũng như giai điệu synth-pop của Gabriel đã tạo nên "bầu không khí đằng sau những ca từ mà ông ấy đang hát chứ không phải là một ca khúc được sản xuất hay ho".[14]

Thu âm và sản xuất[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi chứng kiến bài hát "I Knew You Were Trouble" đứng đầu bảng xếp hạng phát thanh pop ở Hoa Kỳ suốt bảy tuần liền, Swift lấy động lực và mời lại Martin và Shellback làm những người hợp tác nồng cốt để tiếp tục ứng dụng những chất âm điện tử-pop của hai vị nhạc sĩ lên 1989.[21][8] Cô thích làm việc cùng Martin và Shellback là vì họ thường đem ý tưởng của cô và hô biến thành nhiều hướng đi khác nhau, tạo cảm giác thử thách cho nữ ca sĩ ở vai trò nhạc sĩ sáng tác bài hát. Swift gọi vai trò đốc thúc sản xuất của Martin và Shellback là một trong những yếu tố khiến cô quyết định thay đổi trong album này: "Tôi chưa bao giờ bị thử thách về mặt sáng tác tới vậy [...] Tôi háo hức đến phòng thu mỗi ngày vì bạn không thể biết được chúng tôi sắp thực hiện điều gì [...] mức độ tự phát ấy làm tôi phấn chấn trong quá trình sản xuất âm nhạc."[19] Martin và Shellback sản xuất tổng cộng 9 trên 16 bài trong phiên bản Deluxe. Hầu hết ca khúc mà Martin sản xuất đều trải qua giai đoạn chỉnh sửa tại Thụy Điển, các phòng thu như MXM StudiosStockholm, Studio Elevator Nobody ở Göteborg và The Hideaway Studio.[27] Swift ghi công Martin là đồng điều hành sản xuất vì ông cũng thu âm và sản xuất giọng hát ở những bài mà ông không được ghi công, cũng như những bài mà Swift cho là quan trọng để giúp cho 1989 thêm mạch lạc. Nữ ca sĩ cảm kích "sự hỗ trợ không ngừng nghỉ [...] mà không đòi hỏi ghi công" của Martin, khẳng định "Max hiểu tôi muốn thực hiện một album, chứ không phải một tuyển tập bài hát nghe như vừa thu âm tại những địa điểm khác nhau, bởi nhiều người khác nhau."[21] Theo Swift, các nhà sản xuất góp mặt trong album chỉ từ bốn đến năm người mà cô thực sự muốn hợp tác. Chính cô và Martin là những người cuối cùng "giám sát" và "khiến đĩa nhạc hợp nhất trở lại về mặt âm thanh".[26]

Jack Antonoff là nhà sản xuất chủ lực tiếp theo cho 1989, và anh từng làm việc với Swift qua đĩa đơn nhạc phim "Sweeter than Fiction" (2013) mang đậm màu sắc new wavebubblegum pop thập niên 80.[28] Trong giai đoạn sản xuất, Swift và Antonoff làm việc từ xa và gửi cho nhau nhiều đoạn hội thoại mỗi khi viết một bài hát mới.[26] Đặc biệt, Antonoff sử dụng nặng nề synthesizer Juno-6 mà anh cảm thấy nhạc cụ đó đem lại cảm giác "vừa buồn tẻ vừa vinh quang cùng lúc".[29] Anh đồng sáng tác và đồng sản xuất ba bài hát, hai bài nằm trong bản tiêu chuẩn và một bài nằm trong bản Deluxe.[26] "I Wish You Would" là bài hát mà nam nhạc sĩ thử nghiệm lấy mẫu nhạc cụ trống lẫy đến từ đĩa đơn năm 1988 "She Drives Me Crazy" của Fine Young Cannibals. Antonoff phát đoạn mẫu của anh cho Swift nghe bằng iPhone và gửi lại cho cô để tái thu âm.[25] Bản chính thức cuối cùng của "I Wish You Would" là một bản phối lại vẫn giữ được tiếng trống lẫy đặc trưng.[30] Đối với "Out of the Woods", Antonoff gửi cả phần nhạc khí hoàn chỉnh của anh cho Swift trong lúc cô đang ngồi trên máy bay.[31] Chỉ trong vòng 30 phút, Swift đã gửi lại bản thu âm cho nam nhạc sĩ với lời bài hát được lấy thẳng từ những trang nhật ký của cô. "Out of the Woods" là bài hát đầu tiên mà Swift đã soạn lời dựa trên đoạn nhạc nền sẵn có.[25][32]

Swift liên hệ với ca sĩ kiêm nhạc sĩ mà cô đã luôn muốn được làm việc chung là Ryan Tedder bằng cách gửi voice memo điện thoại thông minh.[33] Tedder đã đồng sáng tác và đồng sản xuất hai bài hát cho nữ ca sĩ là "Welcome to New York" và "I Know Places".[27] Ở "I Know Places", Swift đã lên lịch hẹn gặp cùng Tedder tại phòng thu âm sau khi cô đã hình thành ý tưởng hoàn chỉnh cho riêng cô. Quá trình thu âm được diễn ra ở ngày tiếp theo sau khi ca khúc được hoàn thiện.[34] Tedder chia sẻ tác phong làm việc luân lý, chuyên nghiệp và cầu toàn hoàn hảo của Swift với tạp chí Time rằng: "95 trên 100 điểm đấy. Nếu như tôi có một bài hát mà chúng tôi đều hài lòng thì nữ ca sĩ ấy sẽ nói, 'Thiệt là tuyệt vời.' Thật hiếm để nghe thấy câu nói 'Không, vẫn không đúng.' Nhưng với những nghệ sĩ thành công nhất mà tôi làm việc cùng là những người nói thẳng vào mặt tôi rằng, 'Không, anh làm sai rồi,' từ hai hoặc ba lần liên tiếp. Và cô ấy là kiểu người như vậy."[35]

Với ca khúc "Clean", Swift đích thân gặp mặt nhà sản xuất người Anh Imogen Heap tại Luân Đôn sau khi sáng tác lời, điệp khúc và hợp âm cho bài hát. Heap giúp nữ ca sĩ hoàn thiện ca khúc bằng cách đánh nhạc cụ như tiếng trống và thêm một chút tiếng ồn. Họ hoàn tất thu âm sau hai buổi trong một ngày tại phòng thu của Heap theo lời nhạc sĩ chia sẻ, "Đó là một ngày rất vui vẻ [...] Cô ấy thu bài hát chỉ hai lần và lần thứ hai là hoàn chỉnh."[26] Người cộng sự lâu đời của Swift Nathan Chapman, phụ trách đồng sản xuất "This Love".[36] Trước khi được Swift và Martin viết lại ca từ, "Style" là một bài hát nhạc không lời do nghệ sĩ guitar Niklas Ljungfelt và Ali Payami thực hiện. Sau khi Payami phát bài hát cho Martin tại phòng thu, Swift nghe thấy được và tỏ ra yêu thích. Đoạn guitar được Ljungfelt thu lại trước khi bài hát thuộc về Swift.[26] 1989 được Tom Coyne master trong hai ngày tại phòng thu Sterling Sound Studio bên thành phố New York, và vị kỹ sư cho rằng công việc này "khá dễ dàng" và "trơn tru".[27][26] Quá trình thu âm album diễn ra tại Conway Studios ở Los Angeles, Jungle City Studios ở New York, Lamby's House Studios ở Brooklyn, MXM StudiosStockholm, Thụy Điển; Pain In The Art Studio ở Nashville, Studio Elevator Nobody ở Göteborg, Thụy Điển và The Hideaway Studio.[27] Swift tiết lộ cô sẽ hoàn tất thu âm sau khi vừa kết lại chặng châu Á của The Red Tour vào giữa năm 2014.[37]

Nhạc và lời[sửa | sửa mã nguồn]

Âm thanh và thể loại[sửa | sửa mã nguồn]

Phiên bản tiêu chuẩn của album 1989 gồm có 13 track, đối với phiên bản Deluxe thì có thêm 6 track gồm 3 bài hát gốc và 3 đoạn ghi âm hội thoại.[41][42] Swift khẳng định 1989 là "album pop chính thức đầu tiên"[43] được lấy cảm hứng từ âm nhạc của các ca sĩ–nhạc sĩ thập niên 1980 như Lennox, Phil Collins hay Madonna ở kỷ nguyên Like a Prayer.[12][44] Album còn đánh dấu giai đoạn biến chuyển về âm nhạc của cô, nhờ vào phần nhạc nền của các bài hát được sản xuất bằng những nhạc cụ như đàn tổng hợp âm synthesizer, máy đánh trống lập trình, tiếng bass rộn ràng và phần giọng bè qua xử lý. Chính đặc điểm về nhạc cụ trong 1989 đã dẫn đến sự đối lập so với các biên khúc acoustic trong album trước đó của Swift. Ngoài ra, âm thanh đàn guitar cũng xuất hiện trong kết cấu một vài bài hát.[45][46] Vì Swift đã quyết tâm tái tạo lại âm thanh pop thuần túy từ những năm 1980 nên album lần này của cô không hề có những yếu tố thể loại phụ chen vào như hip hop hoặc R&B đương đại vốn phổ biến trong âm nhạc đại chúng lúc bấy giờ.[47] Mặc dù Swift đã tuyên bố cô bắt đầu chuyển mình sang pop ở 1989 nhưng một số nhà phê bình như Marah Eakin của The A.V. Club[48] đã khẳng định rằng nữ ca sĩ đã luôn thiên về pop. Ngay cả những bài nhạc đồng quê cũ của cô cũng hơi hướng đi theo thể loại đại chúng đó.[1]

Âm thanh "Wildest Dreams" được so sánh với các tác phẩm của nữ ca sĩ người Mỹ Lana Del Rey,[48][49] còn "Style" thì lại gợi người nghe nhớ đến phong cách của Electric YouthBlood Orange.[50] "Blank Space" mang thể loại electropop tối giản,[40] kết hợp nhịp điệu hip-hop của máy đánh trống.[30][35][40] Được xem như một ví dụ hoàn hảo của album,[51] "Out of the Woods" mang các yếu tố của thập niên 1980 xen lẫn đương đại, sử dụng đàn synthesizer Yamaha DX7 và âm thanh méo mó của Minimoog Voyager trong đoạn điệp khúc.[32] "Shake It Off" là một bài nhạc pop tiết tấu nhanh,[38] có xuất hiện tiếng kèn saxophone.[52] Alex Frank của Vogue so sánh đoạn hợp âm "ey ey" trong "Wonderland" với một bài hát của ca sĩ Rihanna.[53] Các yếu tố synth-pop cũng xuất hiện trong "New Romantics",[54] "Welcome to New York" và "You Are in Love".[30] Ba bản ghi âm "I Know Places", "I Wish You Would" và "Blank Space" trong phiên bản Deluxe có chứa lời kể của Swift về quá trình sáng tác và đoạn demo chưa hoàn chỉnh của các ca khúc.[55] Giáo sư truyền thông và nghệ thuật Myles McNutt đã ví những track voice memo là cách thức Swift khẳng định quyền thế của cô với album 1989 cũng như góp phần thách thức "hệ thống phân cấp giới tính" của nhạc pop do các nhạc sĩ sáng tác bài hát và nhà sản xuất nam giới thống trị.[42]

Lối sáng tác và ca từ[sửa | sửa mã nguồn]

Tương tự như những album liền trước của Swift, 1989 chủ yếu nói về cảm xúc và suy tư xuất phát từ những mối quan hệ lãng mạn đổ vỡ trong quá khứ.[45][56][57] Ngoài ra, ca từ của các bài hát trong album cũng được lấy cảm hứng từ những câu chuyện diễn ra trong cuộc sống của Swift lúc bấy giờ.[21][58] Tuy phong cách sáng tác bài hát của Swift vẫn giữ nguyên là đi theo hình thức kể chuyện bắt nguồn từ hoàn cảnh lớn lên cùng âm nhạc đồng quê của cô,[59][60] nhưng các nhà âm nhạc học cho rằng lối sáng tác theo âm nhạc pop khi đó của nữ ca sĩ mơ hồ hơn và tập trung nhiều hơn vào cường độ mạch cảm xúc và ý tưởng đại khái hơn là chi tiết phức tạp.[61] Những nhân vật của Swift bên trong các bài hát 1989 đều thôi trách mắng người yêu cũ và những mối quan hệ thất bại như những bài hát trước đây[62][63] và thay vào đó là nhìn nhận sự việc bằng góc nhìn đầy tiếc nuối.[12]

Diana Pearl của Marie Claire nhận thấy nội dung về cảm giác tự do hạnh phúc diễn ra sau khi chia tay và cuộc sống độc thân trong 1989 hoàn toàn khác biệt so với nỗi than khóc cho những chuyện tình đoản mệnh hay cảm nhận về những mối tình đổ vỡ thường thấy ở những album trước của Swift.[64] Swift chia sẻ rằng cô thay đổi thái độ lẫn cảm xúc là do bản thân đã nhìn nhận ra "những câu chuyện tình cảm phức tạp hơn thế". Khi đó, nữ ca sĩ thừa biết bản thân cô gái cũng là người có lỗi trong chuyện tan vỡ, thay vì chỉ biết đổ hết mọi lỗi lầm cho đối phương.[14] Nhà báo Brian Mansfield viết cho USA Today đã diễn giải rằng nội dung các ca khúc mặc dù được dựa vào đời tư của Swift nhưng vẫn gây được tiếng vang với đông đảo khán giả do họ tìm thấy sự đồng cảm và bắt gặp hoàn cảnh tương tự trong bài hát của nữ ca sĩ.[63] Khi tổng hợp mỗi dòng thông điệp bí mật của 13 bài hát ẩn chứa bên trong quyển sách booklet của 1989, những câu viết trong đó trở thành một câu chuyện về cô gái cảm thấy rắc rối trong khi yêu và cuối cùng cô nhận ra rằng, "Tuy nàng đã đánh mất chàng nhưng nàng tìm được chính nàng và đó là mọi thứ theo cách nào đó."[65]

Chủ đề bài hát[sửa | sửa mã nguồn]

Grady Smith từ The Guardian cho rằng chủ đề chính của 1989 là sự khám phá về bản thân, đưa Swift trở thành một người trưởng thành có suy nghĩ sâu sắc và tự tin.[65] Cảm xúc của Swift khi lần đầu tiên chuyển nhà đến với thành phố New York đã thôi thúc cô sáng tác nên track mở đầu cho album, "Welcome to New York". Đây là ca khúc synth đã giúp Swift tìm về tự do mới có,[36][50] là lời tri ân đến thành phố New York,[66] qua đó phản ánh sự thay đổi về mặt âm nhạc[30] và sự ủng hộ của cô đến cộng đồng LGBT.[67] "Blank Space" mang giai điệu tối giản chịu ảnh hưởng của hip hop, với ca từ chế giễu hình tượng mà truyền thông nhìn nhận đời tư của Swift cũng như kể về một cô gái hẹn hò với nam giới chỉ để thu thập ý tưởng và sáng tác nhạc.[48][68] Quá trình sáng tác một ca khúc thuộc thể loại phụ funk như "Style" được lấy cảm hứng từ những nghệ sĩ nhạc funky điện tử như Daft Punk.[26][69] Lời bài hát kể về mối quan hệ không lành mạnh,[70] và Jordan Sargent của Pitchfork cảm thấy hình tượng cô gái dùng son môi đỏ và một chàng trai trẻ có vẻ ngoài như James Dean mang tính "mãnh liệt đến mức khiến bản chất dường như dài vô tận".[71] Andre Unterberger từ Spin nhận thấy tính trưởng thành và gợi cảm một cách tế nhị trong ca từ, từ "phản ánh sự thay đổi về đối tượng tình cảm" của cô.[72]

Track thứ tư, "Out of the Woods", thuộc thể loại indietronica synth-pop tận dụng nặng nề các nhạc cụ organ, đánh phím xếp lớp, giọng nền loop và tạo nên âm thanh hỗn loạn.[32][73] Swift bảo rằng bài hát được dựa vào tình cảm vì lo sợ gặp rắc rối mà luôn cảm thấy bất an, qua đó "Out of the Woods" trở thành ca khúc đại diện tiêu biểu nhất cho 1989.[74][75][76] "All You Had to Do Was Stay" thể hiện nên cuộc tình đã qua và bài hát được hình thành ngay trong giấc mơ của Swift. Khi đó, nữ ca sĩ đã liên tục hét lên "Stay" với người yêu cũ muốn rời bỏ cô.[77] Ca khúc dance-pop kiêm đĩa đơn mở đường cho 1989, "Shake It Off", có nội dung châm biếm tương tự như "Blank Space". Trong bài hát, Swift đã tỏ ra "tỉnh bơ" đến những lời công kích và nhận xét tiêu cực đến từ những kẻ ghét bỏ với hình tượng của cô.[78][79][58] Chính vì "I Wish You Would" sử dụng tiếng trống lẫy nhịp nhàng và tiếng guitar rực cháy nên bài hát bubblegum pop dễ dàng cho thấy Swift khao khát quay trở lại chuyện tình trong quá khứ.[80][81][82] "Bad Blood" là bài hát với phần khí nhạc tiếng trống đập mạnh và nặng nề,[68] kể về một người đồng nghiệp nữ giấu tên phản bội được cho là Katy Perry.[17] Nguyên nhân bắt nguồn từ sự việc Swift cho rằng Perry đã cố gắng phá hoại chuyến lưu diễn của cô dẫn đến mối quan hệ thù địch trong công nghiệp âm nhạc và khiến cho truyền thông đưa tin mạnh mẽ.[12][83]

"Wildest Dreams" tận dụng nhạc cụ dây để lột tả mối tình dan díu với người đàn ông không chung thủy trong bầu không khí ngột ngạt và kịch tính. Swift đã hát những ca từ ngột ngạt về một chuyện tình giấu giếm cam chịu bằng chất giọng run rẩy và thì thầm.[26][69][84][30] Đến với "How You Get the Girl", đây cũng là một bản bubblegum pop khác sử dụng strum guitar và giai điệu disco nặng được cho là "quyển cẩm nang dành cho đàn ông" sau khi chia tay. Qua bài hát, Swift cho thấy cô đang có khát khao được trở lại cùng với người yêu cũ.[85][69][81][86] Ca khúc thứ mười một trong 1989, "This Love", là một bài hát thuộc thể loại electropop ballad với yếu tố phụ soft rock mà trong đó, Swift sử dụng hình ảnh đại dương làm phép ẩn dụ cho một tình yêu tan biến rồi quay trở lại như thủy triều. "This Love" được một số phê bình xem là một trong những bài hát buồn nhất album 1989.[50][68][30] Ca khúc áp chót trong phiên bản tiêu chuẩn của 1989 là "I Know Places". Nội dung của bài hát thể hiện ước mong của Swift là được duy trì một mối quan hệ không ổn định. Swift tuyên bố rằng "I Know Places" đóng vai trò là phần tiếp theo lỏng lẻo của "Out of the Woods".[74] Bên cạnh sử dụng đoạn nhạc trống và bass dày đặc và tăm tối, bài hát dùng phép ẩn dụ những con cáo đang cố gắng thoát lui khỏi những kẻ săn lùng để diễn tả một mối tình đang chạy trốn khỏi truyền thông giám sát.[84][72]

Bài hát cuối cùng trong phiên bản tiêu chuẩn, "Clean", là khúc ca soft rock nhẹ và synth-folk với nội dung kể về nhân vật chính đang cố gắng đấu tranh để thoát khỏi tình yêu độc hại nhưng dễ gây nghiện. Đến cuối cùng, nhân vật chính cũng "gột rửa" bản thân sau chuyện tình "mưa bão có sức tàn phá".[50][87][88] "Wonderland" là bài đầu tiên trong ba bài hát được bổ sung ở phiên bản Deluxe, với lời ca xuất phát từ bối cảnh truyện thần tiên Alice ở xứ sở thần tiên nhằm diễn tả một cuộc tình rơi vào "hang thỏ".[30] Bản ballad "You Are in Love" được lấy cảm hứng từ tình yêu của Antonoff và Lena Dunham. Ca khúc bàn về một mối quan hệ lý tưởng từ góc nhìn của một người phụ nữ khác, nhờ hàng loạt những hình ảnh "vừa đặc biệt mà cũng rất quen thuộc".[89][90][30] Bài bổ sung cuối cùng "New Romantics" lấy đề tài từ cuộc vận động văn hóa vào cuối thập niên 1970 đến đầu thập niên 1980.[30] Với âm thanh synth-pop mạnh mẽ của những năm 1980, "New Romantics" cho thấy Swift đang khơi lại hy vọng và nghị lực của bản thân sau những nỗi đau mà nữ ca sĩ đã phải chịu đựng,[62][91] cùng phần lời rộn ràng về tuổi trẻ và thể hiện phong thái tự do.[92]

Tiêu đề và thiết kế[sửa | sửa mã nguồn]

Swift quyết định đặt tên album phòng thu thứ năm là 1989 theo năm sinh của bản thân, và cô cho rằng đó là biểu tượng tái sinh hình tượng và nghệ thuật của chính cô.[26][93] Theo ghi chú, nữ ca sĩ phụ trách chỉ đạo sáng tạo thiết kế đóng gói album,[27] cũng như lên ý tưởng chụp hình bằng máy ảnh tức thì Polaroid từng phổ biến trong giới nhiếp ảnh những năm 1980.[94][95] Dưới sự chỉ đạo của Swift, Sarah Barlow và Stephen Schofield thực hiện những bức ảnh cho 1989, trong khi Amy Fucci và Austin Hale chịu trách nhiệm thiết kế. Bethany và Josh Newman là chỉ đạo nghệ thuật, còn Lorrie Turk và Joseph Cassell thì làm công việc trang điểm, làm tóc và phục trang.[27]

Ảnh bìa album của 1989 là một bức hình chụp Polaroid của Swift che mất phần mắt ở phía trên. Lúc phỏng vấn với Time, Swift giải thích rằng ảnh bìa của album mang "không khí bí ẩn" và chia sẻ: "Tôi không muốn người khác đọc được ADN cảm xúc trong album này [mà chỉ dựa vào ảnh bìa]. Tôi không muốn họ nhìn thấy một tấm ảnh mỉm cười và nghĩ đây là một album vui vẻ, hay một khuôn mặt sầu não và cho rằng, ồ, đây lại là một đĩa nhạc chia tay."[96][97] Ngoài ra trong hình bìa, nữ ca sĩ còn tô đôi môi màu son đỏ và mặc áo len lavender in hình chụp những con mòng biển đang bay lượn trên bầu trời xanh thẳm.[94][98] Tên chữ cái đầu viết tắt của Swift được viết bằng mực đen ở phía bên dưới góc trái, còn tựa album 1989 thì ở bên dưới góc phải.[95][97]

Mỗi một chiếc đĩa CD album 1989 đều chứa một trong năm xấp 13 hình chụp Polaroid ngẫu nhiên. Tổng cộng có tới 65 hình chụp Polaroid khác nhau,[99] đa phần đều lấy bối cảnh Swift đi chơi và tạo dáng ở thành phố New York hoặc trong những buổi thu âm cùng với những nhà sản xuất.[100] Những bức hình Polaroid được chụp bằng nghệ thuật out nét (hay còn được gọi là làm mờ ảnh do không lấy nét) với bộ lọc tông màu sepia. Bên dưới hình chụp là những ca từ của các bài hát trong album 1989 do Swift viết bằng mực đen.[95] Giám đốc điều hành của Polaroid Corporation, Scott Hardy, đã tuyên bố rằng ý tưởng Polaroid trong album 1989 giúp hồi sinh những thước phim tức thì, nhất là dành cho những người thuộc tiểu văn hóa hipster vốn đam mê những yếu tố hoài cổ và cổ điển mà công ty Polaroid luôn hướng đến.[101] Năm 2022, Billboard đã gọi bức hình chụp ảnh bìa 1989 là một trong 50 ảnh bìa album xuất sắc nhất mọi thời đại.[102]

1989 còn đính kèm một cuốn tập sách nhỏ (booklet). Mở đầu của tập sách là lời nói đầu của Swift giải thích lý do cô thay đổi âm nhạc và mong muốn khám phá bản thân tại thành phố New York. Cuốn booklet này chứa nhiều hình ảnh hậu trường của Swift lúc thu âm cùng Martin, Tedder và Heap, bên cạnh ngày chụp cho cô ghi chép lại. Như những album trước, Swift đã lồng vào trứng phục sinh bằng nhiều ký tự in nhỏ trong tập ảnh để chỉ ra ý nghĩa của những bài hát. MTV News đã mô tả những thông điệp này đã "vẽ nên bức tranh của một chàng trai và cô gái yêu nhau sâu đậm nhưng không thể bước tiếp."[100]

Phát hành[sửa | sửa mã nguồn]

Sau thời gian hé lộ thông tin trên hệ thống InstagramTwitter,[103][104][105] Swift tổ chức một buổi tọa đàm công bố 1989 tại đỉnh của Tòa nhà Empire State vào ngày 18 tháng 8 năm 2014.[44] Trong các tuần lễ kế tiếp, cô tổ chức nhiều bữa tiệc nghe thử album mang tên "1989' Secret Sessions" cho khán giả hâm mộ, những người được cô theo dõi trên các trang mạng xã hội suốt nhiều tháng liền để tương tác cùng họ.[106] Những buổi nghe thử album diễn ra tại những căn hộ và nhà riêng của cô ở New York, Los Angeles, Nashville, Rhode IslandLuân Đôn.[107][108]

Vào ngày 14 tháng 10, cô phát hành "Out of the Woods" làm đĩa đơn quảng bá[109] và bắt đầu chuỗi ngày hé lộ một đoạn lời cho mỗi bài hát trên tài khoản Instagram.[110] Swift ra mắt đĩa đơn quảng bá tiếp theo, "Welcome to New York" vào ngày 21 tháng 10, nhưng do cách biệt về múi giờ nên bài hát được phát hành sớm hơn tại Nga.[111] Sau khi một danh sách bài hát của album bị phát tán lên hệ thống Twitter, có bao gồm các tác giả tương ứng,[112] cô chính thức công bố tên của 13 bài hát trong phiên bản tiêu chuẩn của album vào ngày 22 tháng 10.[113] Ngay sau đó, cửa hàng iTunes từ Canada vô tình rò rỉ một đoạn âm thanh đầy tiếng ồn dài 8 giây với tựa đề "Track 3" từ album. Dù nhanh chóng bị gỡ khỏi hệ thống, bài hát vẫn kịp đạt ngôi quán quân tại quốc gia này.[114][115][116][117]

1989 bị rò rỉ cách thời điểm phát hành chỉ 3 ngày,[118] "Blank Space" là bài hát đầu tiên được bí mật đưa lên trang YouTube, trước khi hãng thu âm Big Machine Records kịp hủy đi đoạn video trên.[119] Lindsey Weber từ New York cho rằng vụ việc rò rỉ này bắt nguồn từ Pháp, vì các tập tin được đăng tải bằng ngôn ngữ địa phương.[120] Trong ngày phát hành, Swift phỏng vấn tại chương trình Good Morning AmericaThe Ellen DeGeneres Show.[121] Vào 19 giờ cùng ngày, cô tái xuất hiện trên sân thượng tòa nhà Empire State trong một đêm nhạc riêng tư, được truyền tiếp bởi Yahoo! MusiciHeartRadio.[122]

Trong tuần lễ phát hành, album này ra mắt với phiên bản tiêu chuẩn gồm 13 bài hát tại các nhà bán lẻ và tải nhạc số,[44][123] trong khi phiên bản cao cấp phát hành độc quyền trên hệ thống Target ở Hoa Kỳ và Canada, chứa 3 bài hát mới cùng 3 đoạn chú thích.[124] Hai phiên bản này cũng phát hành ở Đức[125][126][127][128] và Anh Quốc trong cùng ngày.[129][130][131][132] Hãng Microsoft rao bán trọn bộ album này với giá chỉ 0.99 đô-la Mỹ thông qua ứng dụng Music Deals.[133] Ngày 17 tháng 2 năm 2015, Swift công bố những bài hát nằm trong phiên bản đặc biệt sẽ được bán tại hệ thống bán lẻ của Apple.[134] Theo đó, "Wonderland" phát hành cùng ngày thông qua iTunes Store dưới dạng đĩa đơn tải nhạc số;[135] "You Are in Love" và "New Romantics" ra mắt bằng định dạng này lần lượt vào ngày 24 tháng 2 năm 2015 và 4 tháng 3 năm 2015.[134]

Dịch vụ âm nhạc trực tuyến[sửa | sửa mã nguồn]

"Theo quan điểm của tôi, giá trị của một album chính là trái tim, linh hồn, lòng nhiệt huyết mà nghệ sĩ dốc hết cho công việc của mình, và được xem là giá trị kinh tế khi nó có mặt trên thị trường. Vi phạm bản quyền, chia sẻ hay tải nhạc lậu đã ảnh hưởng mạnh mẽ và thu hẹp số lượng album được bán ra, buộc mỗi nghệ sĩ phải thực hiện những biện pháp xử lý khác nhau."

—Swift giải thích về vị thế của album đối với thị trường âm nhạc đương đại.[136]

Ngày 7 tháng 7 năm 2014, Swift viết một bài báo dài xấp xỉ 1.100 từ mang tựa đề "For Taylor Swift, the Future of Music Is a Love Story" trên tờ Wall Street Journal. Tại đây, cô nhấn mạnh giá trị quan trọng giữa nghệ sĩ và album và đưa ra nhiều dự đoán "mang tính lạc quan" về tương lai của ngành công nghiệp âm nhạc.[137] Trước đó, vào tháng 1 cùng năm, Borchetta chia sẻ "sự quan ngại sâu sắc" về các dịch vụ streaming với tờ Financial Times: "Tôi nghĩ điều đó làm cho giá trị của nền âm nhạc bị suy giảm [...] Phải tốn rất nhiều thời gian, công sức, tiền của và tài năng để làm được việc này, và nếu cứ cho đi để nhận được những đồng rẻ mạt, sẽ có ngày ta không còn khả năng thực hiện nữa."[138]

Vào ngày 3 tháng 11, Big Machine Label Group quyết định thu hồi lại toàn bộ đĩa nhạc của Swift trên các hệ thống streaming, trong đó có Spotify, vì muốn người nghe phải trả tiền và đẩy doanh thu bán cao hơn nữa.[139][140][141] Thông tin của 1989 vẫn xuất hiện trên trang này, nhưng không có ảnh đồ họa, với một dòng thông điệp đơn giản: "Nghệ sĩ hoặc đại diện của họ quyết định không phát hành album này trên Spotify. Chúng tôi đang cố gắng và hy vọng họ sẽ thay đổi ý định trong thời gian ngắn."[138][141] Spotify thúc giục Swift trở lại, khẳng định họ "tin rằng người hâm mộ có thể nghe nhạc mọi nơi mọi lúc mà họ muốn, và nghệ sĩ có quyền được trả thù lao và bảo vệ cho tác phẩm của mình".[142][143] Chia sẻ với Time, Swift chỉ rõ việc streaming "gây ảnh hưởng không tốt đến lượng đĩa trả phí" và chỉ trích cấu trúc hệ thống của Spotify, mong muốn "mọi người nên nghĩ đến giá trị mà nhạc sĩ tạo nên."[96] Trong một buổi phỏng vấn vào ngày 7 tháng 11, Borchetta công bố âm nhạc của Swift chỉ còn tồn tại trên các trang truyền dẫn dữ liệu có trả phí như Beats Music hay Rhapsody.[140][144]

Tháng 6 năm 2015, người đại diện của Swift xác nhận với Billboard rằng cô từ chối đưa 1989 vào danh mục của hãng Apple Music.[145] Ngày 21 tháng 6, cô đăng tải một bức thư gửi đến Tim Cook và hãng Apple Music mang tựa đề "To Apple, Love Taylor" trên tài khoản Tumblr.[146] Trong bức thư, cô khen ngợi Apple như là một trong "những đối tác tài ba nhất trong thị trường âm nhạc" trước khi đặt vấn đề về quyết định không trả tiền cho nghệ sĩ trong 3 tháng dùng thử miễn phí của người dùng, "Tôi cảm thấy ngỡ ngàng, thất vọng và hoàn toàn ngạc nhiên trước lịch sử tiến bộ và rộng lượng của hãng."[147] Cô chia sẻ mình đại diện cho nhiều đồng nghiệp còn ngại ngần để cất lên tiếng nói, những "nghệ sĩ hoặc ban nhạc mới chỉ phát hành đĩa đơn đầu tiên mà không được trả phí."[146] Chủ tịch phần mềm Internet và dịch vụ Eddy Cue công bố trên Twitter rằng hãng sẽ thay đổi chính sách, đồng ý trả phí cho nghệ sĩ trong thời gian dùng thử,[148] cảm thấy "chắc chắn rằng họ cần phải thay đổi" sau khi đọc lá thư của Swift.[148][149] Theo đó, Swift đồng ý đưa 1989 vào hệ thống Apple Music.[150] Ngày 9 tháng 6 năm 2017, Swift đưa toàn bộ đĩa nhạc của mình, trong đó có 1989, trở lại các hệ thống âm nhạc streaming, bao gồm Spotify, Tidal, AmazonPandora, sau nhiều năm thu hồi.[151]

Quảng bá[sửa | sửa mã nguồn]

Lưu diễn[sửa | sửa mã nguồn]

Swift trình diễn trong The 1989 World Tour tại Detroit, Michigan vào tháng 5 năm 2015.

Ngày 3 tháng 11 năm 2014, Swift công bố về chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới The 1989 World Tour thông qua tài khoản Twitter,[152] với những tấm vé đầu tiên tại Hoa Kỳ được chào bán từ ngày 14 tháng 11.[153] Chương trình bao gồm 85 đêm diễn tại 4 lục địa khác nhau trong vòng 7 tháng[154] và đi qua 55 thành phố.[155] Mở đầu tại Tokyo, Nhật Bản vào ngày 5 tháng 5 năm 2015,[156] chương trình kết thúc ngày 12 tháng 12 năm 2015 tại Melbourne, Úc.[154][155] Trong thời gian lưu diễn, có tổng cộng 78 khách mời đặc biệt tham gia trình diễn cùng Swift[155][157] và 6 nghệ sĩ mở màn theo ngày chọn lọc: HAIM, Shawn Mendes, Vance Joy, James Bay, Ellie GouldingJohn Newman.[158]

Tổng doanh thu của chương trình thu về 250.7 triệu đô-la Mỹ trên toàn cầu, là chuyến lưu diễn có doanh thu cao nhất trong năm 2015.[159] Tính riêng ở Bắc Mỹ, chương trình đạt 199.422.057 đô-la Mỹ, phá vỡ kỷ lục doanh thu cao nhất mọi thời đại của The Rolling Stones năm 2005, giúp Swift trở thành nữ nghệ sĩ đầu tiên trong lịch sử ngành công nghiệp âm nhạc làm được điều này.[160] Các đánh giá đến chuyến lưu diễn đa phần là tích cực, với lời khen ngợi tính năng động và dàn dựng của chương trình.[161][162][163] Ngày 13 tháng 12 năm 2015, cô thông báo phát hành bộ phim tài liệu The 1989 World Tour Live dưới định dạng trực tuyến thông qua Apple Music vào ngày 20 tháng 12. Bộ phim do Jonas Akerlund đạo diễn, ghi hình ngày 28 tháng 11 tại sân vận động ANZ, Sydney trước gần 76.000 người hâm mộ, bao gồm toàn bộ buổi diễn và các đoạn phim về việc diễn tập và trình diễn cùng với các khách mời đặc biệt.[164][165]

Đĩa đơn[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 18 tháng 8 năm 2014, Swift phát hành đĩa đơn đầu tiên, "Shake It Off", dưới định dạng kỹ thuật số.[166] Đĩa đơn đạt thành công lớn về thương mại, là bài hát thứ 22 dẫn đầu bảng xếp hạng Billboard Hot 100 của Hoa Kỳ trong tuần đầu ra mắt và đồng thời cũng là bài hát có doanh số mở màn lớn nhất năm 2014.[167] "Blank Space" xuất hiện trên đài phát thanh Mainstream Top 40, Rhythmic Top 40, Hot AC radio vào ngày 10 tháng 11 năm 2014.[168] Bài hát đứng hạng nhất trên Hot 100 trong 7 tuần liên tiếp[169] và giúp Swift trở thành nữ nghệ sĩ đầu tiên có một ca khúc vượt qua một ca khúc khác của chính mình để giành vị trí thứ nhất trên bảng xếp hạng này.[170]

Republic Records ra mắt "Style" làm đĩa đơn ngày 9 tháng 2 năm 2015.[171] Bài hát đạt hạng 6 trên Hot 100, xuất hiện trong top 10 suốt 9 tuần liên tiếp.[172] Đĩa đơn remix "Bad Blood", với sự tham gia của Kendrick Lamar, phát hành ngày 17 tháng 5.[173] Đĩa đơn này có một trong những cú tăng hạng cao nhất trong lịch sử xếp hạng Billboard và đạt hạng nhất Hot 100 trong vòng 1 tuần lễ.[174] Đĩa đơn thứ 5, "Wildest Dreams" đạt đến top 10 Hot 100 và là bài hát quán quân đầu tiên của Swift ở bảng xếp hạng Dance/Mix Show Airplay.[175]

Sau khi phát hành làm đĩa đơn quảng bá vào tháng 10 năm 2015,[109] Swift chọn "Out of the Woods" làm đĩa đơn chính thức thứ 6 vào từ 1989 vào ngày 5 tháng 2 năm 2016,[176] đạt đến vị trí thứ 18 trên Hot 100.[177] "New Romantics" là đĩa đơn thứ 7,[92] đạt đến top 50 tại Hoa Kỳ.[178] 1989 là album đầu tiên kể từ 21 (2011) của Adele có 3 đĩa đơn đạt hạng nhất Hot 100.[174] 5 đĩa đơn đầu tiên trích từ album đều vươn đến ngôi quán quân trên bảng xếp hạng Adult Top 40Mainstream Top 40,[179][180] đồng thời giành chứng nhận Bạch kim từ Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ (RIAA).[181]

Đánh giá chuyên môn[sửa | sửa mã nguồn]

Đánh giá chuyên môn
Điểm trung bình
NguồnĐánh giá
Metacritic76/100[182]
Nguồn đánh giá
NguồnĐánh giá
AllMusic[183]
The AV ClubB+[48]
Billboard[45]
The Daily Telegraph[87]
Entertainment WeeklyB[184]
The Guardian[185]
NME[50]
Rolling Stone[86]
Slant Magazine[82]
Spin7/10[72]

Các nhà phê bình đánh giá 1989 một cách tích cực. Trên Metacritic, một trang mạng tổng hợp điểm đánh giá trung bình của các nhà phê bình với thang điểm 100, album nhận được số điểm 76, dựa trên 29 bài nhận xét, đồng nghĩa với mức đánh giá tích cực.[182] Rob Sheffield phong tặng album 4 sao trên Rolling Stone, khẳng định album "kỳ quặc một cách sâu sắc, xúc cảm một cách cuồng nhiệt, nhiệt tình một cách hoang dại, 1989 nghe hệt như Taylor Swift, cho dù không giống với bất kì thứ gì mà cô thử nghiệm trước đây."[86] Trong một bài đánh giá 4 trên 5 sao khác của tờ The Guardian, Alexis Petridis cho rằng album này "sở hữu những âm điệu không thể chối từ, cùng những đoạn điệp khúc đồ sộ và hoàn hảo, với những đoạn hook bắt tai. Nghe giống một bản làm lại đằm thắm từ loại nhạc pop-rock cuối thập niên 80 của MTV, như Rush Hour của Jane Wiedlin."[185]

Emma Dibdin từ Digital Spy gọi đây là "sản phẩm dễ chịu, bắt tai và mang nhiều dự tính nhất mà Swift từng sản xuất", nhưng lại là "album ít mang tính cá nhân nhất của cô cho đến hiện nay".[186] Adam Markovitz của Entertainment Weekly cảm thấy "cô đang cố gắng giành chiến thắng ở cuộc chơi của kẻ khác, gọt đẽo những ca từ về thứ tình yêu đại trà trên lối nhạc của đàn synthesizer."[184] Andy Gil đến từ The Independent phong tặng album này 3 trên 5 sao, cho rằng đây là tập hợp của "những nét tương phản rõ ràng, những biến đổi bất thình lình và hình tượng gây mâu thuẫn" và các bài hát đang cố gắng "tóm lược những biến chuyển cảm xúc sâu sắc trong những ca từ nổi bật".[187] Trong một bài đánh giá trên Time, Sam Lansky cho rằng "những âm thanh chuyên nghiệp, tinh xảo của 1989 đánh dấu tay nghề ấn tượng khi cô ấy chuyển mọi sự quan tâm của khán giả xoay quanh chuyện cá nhân sang các giá trị âm nhạc, một hành động rất thông minh và đầy tự tin."[35]

Trên New York Daily News, Jim Farber nhận định album này của Swift "mang tính thoái bộ, tuơi tắn và non trẻ nhất từ trước tới nay", cũng như xem đây là "tác phẩm sáo rỗng và ít quan trọng nhất của cô".[188] Jon Caramanica từ The New York Times nhận định 1989 khác biệt hẳn so với những album pop thịnh hành có hơi hướng R&B và hip-hop khác, khi "tràn ngập những bài hát về tình yêu tan vỡ được nhẹ nhàng đưa đến bởi tính trung lập lão luyện".[36] Jem Aswad từ Billboard xem đây là "dòng nhạc pop tinh vi và xứng đáng được công nhận rộng rãi ở thị trường thương mại".[45] Craig Manning từ AbsolutePunk cho rằng việc "tách ra khỏi dòng nhạc đồng quê và chuyển sang nhạc pop" có thể là "bước chuyển mình lớn nhất trong sự nghiệp của cô ấy" trong suốt 5 năm trở lại đây.[189] Matthew Horton từ NME mô tả album này là một "hiện tượng nhạc pop" và khen ngợi Swift "kiên quyết cắm lá cờ của mình trong lãnh địa dòng nhạc pop".[50]

Giải thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

1989 xuất hiện trong nhiều danh sách cuối năm bởi các nhà phê bình âm nhạc. Rolling Stone xếp album ở vị trí thứ 10 trong danh sách cuối năm 2015, khen ngợi việc "từ bỏ chiếc đàn banjo để thực hiện một album Top 40 hào nhoáng–hệt như Dylan biến chuyển cùng nhạc điện tử, ngoài việc có nhiều bài hát về Harry Styles hơn mà thôi".[190] Album đứng đầu danh sách album xuất sắc của năm bởi tạp chí Billboard, gọi đây là album "kế vị nhằm chinh phục thế giới nhạc pop với những đoạn hook nghiễm nhiên và sự tín nhiệm khổng lồ";[191] và tạp chí Cosmopolitan, khi được Eliza Thompson mô tả gồm "nhiều nhịp điệu ngọt ngào của những năm 80 cùng những đoạn điệp khúc khó quên, cho dù bạn có cố gắng đến đâu".[192] Tạp chí Time vinh danh đây là "album pop thịnh hành xuất sắc nhất trong năm" và xếp nó ở vị trí thứ 4 trong danh sách 50 album dẫn đầu.[193] Pitchfork Media xếp album vào vị trí thứ 31 trong danh sách 50 album của năm.[194] Jon Caramanica của The New York Times xếp album ở vị trí thứ 7, khen ngợi Swift "vẫn giữ nguyên chính mình" dù thay đổi thể loại âm nhạc.[195]

Tại giải thưởng Japan Gold Disc Award, 1989 thắng giải "Album phương Tây của năm" và lọt vào danh sách 3 album Âu Mỹ hay nhất năm.[196] Album còn giành đề cử giải ECHO cho "Album pop/rock quốc tế của năm"[197]giải Juno cho "Album quốc tế của năm".[198] Năm 2015, album thắng giải thưởng Âm nhạc Billboard cho "Top Billboard 200 Album" và đề cử cho hạng mục này lần nữa vào năm 2016.[199][200] Tại giải thưởng Âm nhạc Mỹ, album giành giải "Album pop/rock được yêu thích".[201] Tại giải Grammy lần thứ 58, 1989 thắng hạng mục "Album giọng pop xuất sắc nhất" và giúp Swift trở thành nữ ca sĩ chính đầu tiên hai lần giành giải "Album của năm".[202]

Diễn biến thương mại[sửa | sửa mã nguồn]

1989 là album bán chạy nhất tại Hoa Kỳ trong tuần đầu tiên kể từ The Eminem Show (2002) của Eminem.[203]

1989 đạt 1.287 triệu bản trong tuần đầu phát hành tại Hoa Kỳ, dẫn đầu bảng xếp hạng Billboard 200. Lượng album bán với giá 0,99 đô-la Mỹ thông qua hãng Microsoft không được tính, do chính sách loại bỏ lượng đĩa bán với giá dưới 3.99 đô-la Mỹ trong 4 tuần đầu ra mắt của Nielsen SoundScan.[204] Album phá vỡ kỷ lục doanh số của chính Swift, là album thứ 19 bán hơn 1 triệu bản trong tuần lên kệ trong lịch sử số liệu của SoundScan. Đây là tuần đạt doanh số bán chạy thứ 7 trong lịch sử, kể từ The Eminem Show (2002) của Eminem. Swift cũng là nghệ sĩ đầu tiên có trong tay 3 album tiêu thụ hơn 1 triệu bản trong tuần đầu.[205] Album vượt 2 triệu bản và dẫn đầu Billboard 200 trong tuần phát hành thứ hai và thứ ba.[206][207][208] Trong tuần lễ ngày 13 tháng 12 năm 2014, 1989 là album đầu tiên đạt hạng nhất sau khi Billboard 200 sáp nhập hoạt động streaming vào cơ chế ước tính, với 339.000 đơn vị album tương đương (trong đó có 281.000 bản album thực).[209] Album bán thêm 200.000 bản trong mỗi 10 tuần sau khi ra mắt, thành tích mà Usher cùng Confessions đạt được năm 2004.[210] 1989 bán hơn 3.6 triệu bản trong năm 2014 và là album bán chạy nhất năm tại Hoa Kỳ, vượt mặt Ghost Stories của Coldplay.[203][211][212]

Tuần lễ ngày 18 tháng 1 năm 2015, album bán hơn 4 triệu bản,[213][214] là album đầu tiên đạt thành tích này kể từ Red vào tháng 2 năm 2014.[215] Cuối tháng 2 năm 2015, trong tuần phát hành thứ 15, 1989 dẫn đầu bảng xếp hạng tại Hoa Kỳ trong 11 tuần không liên tiếp, biến Swift trở thành nữ nghệ sĩ có số tuần dẫn đầu Billboard của tất cả các album cao thứ nhì, đứng sau Whitney Houston.[212][216] Đây là một trong 9 album duy nhất có 24 tuần phát hành đầu tiên lọt vào top 5 Billboard 200, kể từ 1963.[217] Ngày 13 tháng 3 năm 2015, Billboard thông báo 1989 đã vượt doanh số của RedSpeak Now tại Hoa Kỳ, chỉ sau 19 tuần phát hành.[218] Ngày 27 tháng 10 năm 2015, đây là album thứ năm trong lịch sử đạt top 10 Billboard 200 trong suốt 1 năm ra mắt.[219] Kể từ tuần thứ 54, album này không còn nằm trong top 10 nữa.[220] Tính đến đầu năm 2017, 1989 đã bán ra 14.000.000 bản tại Mỹ.[221]

Tại Canada, album mở đầu tại ngôi quán quân với 107.000 bản,[222] là album mở đầu ấn tượng nhất kể từ năm 2008.[222][223] Album trở thành sản phẩm bán chạy nhất năm tại quốc gia này, với 314.000 bản.[224] Tại Anh Quốc, 1989 đạt 90.000 bản chỉ trong vòng 7 ngày ra mắt, trở thành album thành công nhất của một nữ nghệ sĩ trong năm 2014.[225] Đến nay, album đã bán ra 1.03 triệu bản tại Anh Quốc.[226] Tại Úc, đây là album thứ 3 liên tiếp của Swift đạt đến ngôi quán quân,[227] với doanh số 43.428 bản trong chưa đầy 4 ngày đầu[228] và giành danh hiệu album bán chạy nhất của năm.[229] Theo Liên đoàn Công nghiệp ghi âm quốc tế, 1989 bán 6 triệu bản năm 2014[230] và 3.5 triệu bản năm 2015 trên toàn cầu,[231] nâng tổng doanh số hai năm đạt 9.5 triệu bản. Tính đến tháng 6 năm 2019, album đã bán hơn 30 triệu bản trên toàn cầu.[151]

Phân tích[sửa | sửa mã nguồn]

Lượng doanh số của 1989 thu hút sự chú ý của dư luận trong nhiều tháng liền, khi được kỳ vọng có thể tạo nên cú hích trong lúc diễn ra cuộc khủng hoảng ngành công nghiệp âm nhạc tại Hoa Kỳ.[232] Ben Sisario của The New York Times cho rằng sự lên ngôi của dịch vụ streaming và quyết định từ bỏ phong cách nhạc đồng quê "có thể làm tổn hại tới doanh số bán của Swift".[232] Tương tự, báo cáo của Billboard cho thấy nguy cơ "nhiều người hâm mộ nhạc đồng quê có thể bỏ rơi Swift vì cô chuyển sang dòng nhạc pop" và thị trường "tụt giảm thảm hại" là nguyên nhân khiến họ lo ngại về lượng bán của album này.[233] Anthony DeCurtis của Rolling Stone gọi sự kiện phát hành 1989 "sẽ là một phép thử quỳ tím cho cả ngành công nghiệp. Chưa một album nào trong năm đạt tới chứng nhận Bạch kim—ngay cả Beyoncé—vì chẳng ai bỏ tiền mua album nữa".[119] Khi album bị rò rỉ chỉ vài ngày trước khi ra mắt, DeCurtis tin rằng doanh số sẽ không bị ảnh hưởng, vì "người hâm mộ của Taylor Swift trung thành một cách bất thường. Tôi không tin có người muốn trả tiền cho album này lại bị lung lay bởi vụ rò rỉ."[119]

3 tuần trước khi ra mắt, giới phân tích nhận định 1989 có thể bán ra 750.000 bản trong tuần đầu, vì "sự xuống dốc đồng bộ trên thị trường và tiến triển ảm đạm của một vài sản phẩm lớn vào thời gian đó".[234] Ngày 21 tháng 10 năm 2014, Steve Knopper từ Rolling Stone cho rằng đây có thể là album cứu vãn một "năm doanh thu tồi tệ", với 600.000 đến 750.000 bản trong 7 ngày đầu ra mắt.[235] 6 ngày sau, Billboard cho rằng "còn quá sớm để biết album này liệu có vượt mốc 1 triệu hay không" và đưa ra ước lượng hơn 800.000 bản.[236] Tạp chí này nâng cao dự đoán lên 900.000 bản vào nửa ngày phát hành đầu tiên,[237] rồi lên thành 1 triệu bản vào ngày 28 tháng 10.[121] Chỉ trong ngày lên kệ đầu tiên, các chuyên gia tự tin rằng 1989 sẽ vượt mốc 1 triệu bản và trở thành album bán chạy nhất năm bằng doanh số tuần đầu.[121] Ước lượng tiếp tục tăng lên từ 1,2 triệu trong chưa đầy 48 tiếng phát hành,[233][238] cho đến con số cao nhất là 1,3 triệu bản vào ngày 2 tháng 11 năm 2014.[239][240]

1989 bán ra tổng cộng 1.287 triệu bản trong tuần đầu ở Mỹ, bao gồm 647.000 đĩa thực và 640.000 bản tải kỹ thuật số, tính tới hết ngày 2 tháng 11 năm 2014.[203][241] Theo hãng Apple, album phá vỡ kỷ lục đặt mua của Midnight Memories (2013) mà ban nhạc One Direction nắm giữ tại cửa hàng iTunes Mỹ.[238] Trong ngày phát hành đầu tiên, album tiêu thụ khoảng 600.000 bản, chủ yếu dựa trên hệ thống TargetiTunes.[121] Tính đến ngày 29 tháng 10, album đạt 751.000 bản từ 6 thị trường khác nhau.[242] Theo thống kê của Billboard, doanh số tuần đầu của album này tiêu thụ ở 10 hãng bán lẻ khác nhau, đứng đầu là iTunes (616.000) và Target (474.000),[233] chủ yếu tại các tiểu bang Nam Đại Tây DươngTrung Nam Hoa Kỳ.[243] Trên bảng xếp hạng Billboard 200, album này mở đầu tại ngôi quán quân, với ước lượng thành tích xuất phát bằng doanh số của các album xếp từ vị trí thứ 2 đến vị trí thứ 107 trong tuần lễ đó gộp lại.[244] Brian Mansfield từ USA Today ước tính cứ mỗi giây trôi qua thì lại có từ hai bản trở lên được bán ra, chiếm 22% trong toàn bộ thị trường âm nhạc trong tuần lễ đó.[234]

Billboard phân tích thành công thương mại của 1989 là nhờ vào tần suất xuất hiện dày đặc của cô trên sóng truyền hình và phát thanh, những hiện vật đính kèm album và nói không với cơ sở streaming trực tuyến.[233] Sisario chú ý tới chiến dịch quảng bá "rộng rãi nhất có thể" thông qua các sản phẩm nhượng quyền và mạng xã hội đã giúp cô bù đắp những nguy cơ thất bại.[232] Báo cáo của Zack O'Malley Greenburg từ Forbes cho thấy ngoài Swift, không nghệ sĩ nào khác có album phát hành trong năm 2014 chạm mốc 1 triệu bản và gọi đây "có thể là đĩa Bạch kim cuối cùng của mọi thời đại", nhấn mạnh vào sự ảnh hưởng doanh số do dịch vụ streaming trực tuyến đang phát triển.[245] Luật gia ngành giải trí Lori Landew chia sẻ: "Tôi muốn tin rằng thành công của 1989 là dấu hiệu vực dậy nền công nghiệp đĩa hát. Nhưng rồi tôi buộc phải tin rằng điều đó không đúng. Sự thành công đến nhờ một cộng đồng hâm mộ hùng hậu và trung thành".[246]

Danh sách bài hát[sửa | sửa mã nguồn]

1989Phiên bản tiêu chuẩn[27]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
1."Welcome to New York"
3:32
2."Blank Space"
  • Martin
  • Shellback
3:51
3."Style"
  • Swift
  • Martin
  • Shellback
  • Ali Payami
  • Martin
  • Shellback
  • Payami
3:50
4."Out of the Woods"
  • Antonoff
  • Swift
  • Martin[a]
3:55
5."All You Had to Do Was Stay"
  • Swift
  • Martin
  • Martin
  • Shellback
  • Mattman & Robin
3:13
6."Shake It Off"
  • Swift
  • Martin
  • Shellback
  • Martin
  • Shellback
3:39
7."I Wish You Would"
  • Swift
  • Antonoff
3:27
8."Bad Blood" (hợp tác cùng Kendrick Lamar)
  • Swift
  • Martin
  • Shellback
  • Martin
  • Shellback
3:31
9."Wildest Dreams"
  • Swift
  • Martin
  • Shellback
  • Martin
  • Shellback
3:40
10."How You Get the Girl"
  • Swift
  • Martin
  • Shellback
  • Martin
  • Shellback
4:07
11."This Love"Swift4:10
12."I Know Places"
  • Swift
  • Tedder
  • Tedder
  • Zancanella
  • Swift
3:15
13."Clean"
  • Heap
  • Swift
4:30
Tổng thời lượng:48:40
1989Phiên bản cao cấp tại Canada (các bài hát bổ sung)
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
14."Wonderland"
  • Swift
  • Martin
  • Shellback
  • Martin
  • Shellback
4:05
15."New Romantics"
  • Swift
  • Martin
  • Shellback
  • Martin
  • Shellback
3:50
1989Phiên bản cao cấp trên hệ thống Target / Quốc tế (các bài hát bổ sung)[247]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
14."Wonderland"
  • Swift
  • Martin
  • Shellback
  • Martin
  • Shellback
4:05
15."You Are in Love"
  • Swift
  • Antonoff
  • Antonoff
  • Swift
  • Martin[a]
4:27
16."New Romantics"
  • Swift
  • Martin
  • Shellback
  • Martin
  • Shellback
3:50
17."I Know Places" (Hội thoại chú thích)  3:36
18."I Wish You Would" (Hội thoại chú thích)  1:47
19."Blank Space" (Hội thoại chú thích)  2:11
Tổng thời lượng:68:36
1989Phiên bản cao cấp tại Nhật Bản (DVD đính kèm)[248]
STTNhan đềĐạo diễnThời lượng
1."Shake It Off" (video âm nhạc)Mark Romanek 
2."Shake It Off – The Cheerleaders Scene"  
3."Shake It Off – The Ballerinas Scene"  
4."Shake It Off – The Modern Dancers Scene"  
5."Shake It Off – The Animators Scene"  
6."Shake It Off – The Twerkers & Finger Tutting Scene"  
7."Shake It Off – The Ribbon Dancers Scene"  
8."Shake It Off – The Band, The Fans & The Extras Scene"  
Ghi chú

Những người thực hiện[sửa | sửa mã nguồn]

Đội ngũ tham gia sản xuất 1989 dựa trên phần bìa ghi chú.[27]

Xếp hạng[sửa | sửa mã nguồn]

Chứng nhận doanh số[sửa | sửa mã nguồn]

Quốc gia Chứng nhận Doanh số
Úc (ARIA)[309] Kim cương 500.000^
Áo (IFPI Áo)[310] 2× Bạch kim 30.000*
Brasil (Pro-Música Brasil)[311] Bạch kim 40.000*
Canada (Music Canada)[312] 6× Bạch kim 495,000[224]
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[313] Vàng 10,000double-dagger
Pháp 70,000[314]
Đức (BVMI)[315] Vàng 100.000double-dagger
Ấn Độ (IMI)[316] 3× Bạch kim 60,000
Nhật Bản (RIAJ)[317] Bạch kim 250.000^
México (AMPROFON)[318] 2× Bạch kim+Vàng 150.000^
New Zealand (RMNZ)[319] 3× Bạch kim 45.000^
Ba Lan (ZPAV)[320] 2× Bạch kim 40.000double-dagger
Hàn Quốc (Gaon) 6,182[321]
Tây Ban Nha (PROMUSICAE)[322] Vàng 20.000double-dagger
Thụy Sĩ (IFPI)[323] Vàng 10.000^
Anh Quốc (BPI)[324] 3× Bạch kim 1.030.000[226]
Hoa Kỳ (RIAA)[325] 9× Bạch kim 6.005.000[221]
Tổng hợp
Toàn cầu Không có 10.000.000[151]

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.

Lịch sử phát hành[sửa | sửa mã nguồn]

Quốc gia Ngày Phiên bản Định dạng Nhãn thu âm Nguồn
Toàn cầu 27 tháng 10 năm 2014
  • Phiên bản tiêu chuẩn
  • Phiên bản cao cấp
Big Machine [123][124]
[125][126][127][128]
[129][130][131][132]
Canada 9 tháng 12 năm 2014 Phiên bản tiêu chuẩn Vinyl Big Machine [326]
Hoa Kỳ [327]
Bồ Đào Nha 10 tháng 12 năm 2014 CD [328]
Canada 3 tháng 3 năm 2015 Phiên bản cao cấp Karaoke (tải nhạc số) [329]
14 tháng 5 năm 2015 Karaoke (CD+G) [330]
Hoa Kỳ 15 tháng 12 năm 2014 Phiên bản tiêu chuẩn Karaoke (tải nhạc số) [331][332]
14 tháng 4 năm 2015 Karaoke (CD+G/DVD) [333]
Trung Quốc 30 tháng 12 năm 2014 Phiên bản cao cấp CD Universal Music [334]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Vocal layering (xếp lớp giọng hát) là một quá trình xếp chồng giọng hát trong bản phối để tạo ra một phân đoạn giọng hát mạnh mẽ và đầy đặn. Quá trình này cần sử dụng nhiều bản ghi âm giọng hát khác nhau. Những bản ghi âm này sẽ được trộn vào bản phối để tạo độ sâu, chiều sâu và cá tính cảm xúc của giọng hát.[24]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c McNutt 2020, tr. 77.
  2. ^ Caulfield, Keith (ngày 30 tháng 10 năm 2012). “Taylor Swift's Red Sells 1.21 Million; Biggest Sales Week for an Album Since 2002” [Album Red của Taylor Swift bán được 1,21 triệu bản; Tuần bán album lớn nhất kể từ năm 2002]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2024.
  3. ^ Pinsker, Joe (ngày 13 tháng 8 năm 2012). “Taylor Swift to Release New 'Red' Album in October” [Taylor Swift sẽ phát hành album 'Red' mới vào tháng 10]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2024.
  4. ^ McNutt 2020, tr. 77–78.
  5. ^ Doyle, Patrick (ngày 15 tháng 7 năm 2013). “Taylor Swift: 'Floodgates Open' for Next Album” [Taylor Swift: 'mở cửa lũ' cho album tiếp theo]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2024.
  6. ^ Perone 2017, tr. 2.
  7. ^ Vinson, Christina (ngày 8 tháng 9 năm 2014). “Taylor Swift on Turning Away from Country Music on '1989' [Taylor Swift từ bỏ nhạc đồng quê trong '1989']. Taste of Country (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2024.
  8. ^ a b McNutt 2020, tr. 78.
  9. ^ Jo Sales, Nancy; Diehl, Jessica (ngày 15 tháng 3 năm 2013). “Taylor Swift's Telltale Heart” [Trái tim kể chuyện của Taylor Swift]. Vanity Fair (bằng tiếng Anh) (tháng 4 năm 2013). Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2024.
  10. ^ a b Hindo, Madison; High, Largo (ngày 12 tháng 2 năm 2015). “Taylor Swift Has Reinvented Her Public Image with 1989 [Taylor Swift đã đổi mới hình tượng công chúng của cô ấy trong album 1989]. Tampa Bay Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2024.
  11. ^ Chang, Bee-Shyuan (ngày 15 tháng 3 năm 2013). “Taylor Swift Gets Some Mud on Her Boots” [Taylor Swift có một số vết nhơ trong sự nghiệp của cô ấy]. The New York Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2024.
  12. ^ a b c d e Eells, Josh (ngày 8 tháng 9 năm 2014). “Cover Story: The Reinvention of Taylor Swift” [Câu chuyện trang bìa: Sự đổi mới của Taylor Swift]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2024.
  13. ^ a b Yuan, Jada (ngày 13 tháng 2 năm 2015). “On the Road with Best Friends Taylor Swift and Karlie Kloss” [Trên đường cùng đôi bạn thân Taylor Swift và Karlie Kloss]. Vogue (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2024.
  14. ^ a b c d Block, Melissa (ngày 31 tháng 10 năm 2014). 'Anything That Connects': A Conversation With Taylor Swift” ['Bất cứ điều gì kết nối': Cuộc trò chuyện với Taylor Swift] (Đoạn âm thanh và phụ đề). NPR (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2024.
  15. ^ Graff, Gary (ngày 24 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift on Haters” [Taylor Swift nói về những người ghét bỏ]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2024.
  16. ^ Raab, Scott (ngày 20 tháng 10 năm 2014). “Why Taylor Swift Welcomed You to New York” [Tại sao Taylor Swift chào đón bạn đến New York]. Esquire (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2024.
  17. ^ a b Klosterman, Chuck (ngày 15 tháng 10 năm 2015). “Taylor Swift on 'Bad Blood', Kanye West, and How People Interpret Her Lyrics” [Taylor Swift nói về bài hát 'Bad Blood', Kanye West và cách mọi người diễn giải lời bài hát của cô ấy]. GQ (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2024.
  18. ^ a b Mansfield, Brian (ngày 6 tháng 6 năm 2013). “Taylor Swift's ready to write again” [Taylor Swift đã sẵn sàng để sáng tác thêm một lần nữa]. USA Today (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2024.
  19. ^ a b c d Talbott, Chris (ngày 13 tháng 10 năm 2013). “Taylor Swift Talks Next Album, CMAs and Ed Sheeran” [Taylor Swift nói về album tiếp theo, CMA và Ed Sheeran] (bằng tiếng Anh). Associated Press. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2024.
  20. ^ a b Lipshutz, Jason; Caulfield, Keith (ngày 25 tháng 11 năm 2013). “Taylor Swift Talks Next Album at AMAs: 'We Got A Lot Already' [Taylor Swift nói về album tiếp theo tại AMAs: 'Chúng tôi đã có rất nhiều bài hát sẵn sàng rồi']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2024.
  21. ^ a b c d Light, Alan (ngày 5 tháng 12 năm 2014). Billboard Woman of the Year Taylor Swift on Writing Her Own Rules, Not Becoming a Cliche and the Hurdle of Going Pop” [Người phụ nữ của năm trên Billboard, Taylor Swift, bàn về việc viết ra những quy tắc của riêng mình, không trở thành khuôn sáo và trở ngại của việc theo đuổi nhạc Pop]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2024.
  22. ^ Lee, Christina (ngày 11 tháng 6 năm 2014). “Max Martin Produced 'Most Of' Taylor Swift's Next Album” [Max Martin sản xuất phần lớn album tiếp theo của Taylor Swift] (bằng tiếng Anh). Idolator. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2024.
  23. ^ Sisario, Ben (ngày 22 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's 1989 Carries High Hopes” [1989 của Taylor Swift mang đến mong đợi cao]. The New York Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2024.
  24. ^ Kody, Arthur (ngày 12 tháng 10 năm 2023). “Mastering the art of vocal layering: A step-by-step guide” [Làm chủ nghệ thuật xếp lớp giọng hát: Hướng dẫn từng bước một] (bằng tiếng Anh). Native Instruments. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2024.
  25. ^ a b c Eells, Josh (ngày 16 tháng 9 năm 2014). “Taylor Swift Reveals Five Things to Expect on 1989 [Taylor Swift tiết lộ 5 điều đáng mong đợi ở 1989]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2024.
  26. ^ a b c d e f g h i j Zollo, Paul (ngày 13 tháng 2 năm 2016). “The Oral History of Taylor Swift's 1989 [Lịch sử truyền miệng album 1989 của Taylor Swift] (bằng tiếng Anh). Viện hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Thu âm Quốc gia. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2024 – qua Cuepoint.
  27. ^ a b c d e f g h Taylor Swift (ngày 27 tháng 10 năm 2014). Digital Booklet – 1989 [Tập sách nhỏ kỹ thuật số – 1989]. 1989 (Deluxe Edition) (bằng tiếng Anh). Big Machine Records. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2024 – qua iTunes Store.
  28. ^ Smith, Grady (ngày 20 tháng 10 năm 2013). “Taylor Swift Goes 80s Bubblegum on New Single 'Sweeter than Fiction' [Taylor Swift đi theo phong cách Bubblegum của thập niên 80 trong đĩa đơn mới 'Sweeter than Fiction']. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2024.
  29. ^ Doyle, Tom (tháng 1 năm 2018). “Jack Antonoff” [Jack Antonoff]. Sound on Sound (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2024.
  30. ^ a b c d e f g h i Wickman, Forrest (ngày 24 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's '1989': A Track-by-Track Breakdown” ['1989' của Taylor Swift: Phân tích theo từng ca khúc]. Slate (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  31. ^ Hosken, Patrick (ngày 12 tháng 10 năm 2015). “Taylor Swift Made 'Shake It Off' Partly So We Could All Dance To It At Weddings” [Taylor Swift đã thực hiện 'Shake It Off' một phần là để tất cả chúng ta có thể nhảy nhót trong đám cưới] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2024.
  32. ^ a b c Mansfield, Brian (ngày 14 tháng 10 năm 2014). “How Taylor Swift created 'Out of the Woods' [Taylor Swift đã tạo ra 'Out of the Woods' như thế nào]. USA Today (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2024.
  33. ^ Perricone, Kathleen (ngày 20 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift Gives Details on Recording 'I Know Places' With Ryan Tedder” [Taylor Swift kể chi tiết về việc thu âm ‘I Know Places’ cùng Ryan Tedder] (bằng tiếng Anh). American Top 40. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2024.
  34. ^ McNutt 2020, tr. 81–82.
  35. ^ a b c d Lansky, Sam (ngày 23 tháng 10 năm 2014). “Review: 1989 Marks a Paradigm Swift”. Time. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014.
  36. ^ a b c Caramanica, Jon (ngày 26 tháng 10 năm 2014). “A Farewell to Twang” [Chia tay giọng Twang]. The New York Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  37. ^ Garibaldi, Christina (ngày 30 tháng 5 năm 2014). “Taylor Swift FINALLY Reveals Details About Her Next Album” [Taylor Swift CUỐI CÙNG tiết lộ thông tin chi tiết về album tiếp theo của cô ấy] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2024.
  38. ^ a b Wood, Mikael (ngày 18 tháng 8 năm 2014). “Listen: Taylor Swift releases 'Shake It Off,' from new album '1989' [Nghe: Taylor Swift phát hành 'Shake It Off', từ album mới '1989']. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  39. ^ Feeney, Nolan (ngày 18 tháng 8 năm 2014). “Watch Taylor Swift Show Off Her Dance Moves in New 'Shake It Off' Video” [Xem Taylor Swift thể hiện những bước nhảy của cô ấy trong video 'Shake It Off' mới]. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  40. ^ a b c Zoladz, Lindsay (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's 1989 Is Her Most Conservative Album Yet” [Album 1989 của Taylor Swift là album bảo thủ nhất của cô ấy]. Vulture (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  41. ^ Big Machine Records (ngày 18 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift Announced New Album 1989” [Taylor Swift công bố album mới 1989] (Thông cáo báo chí) (bằng tiếng Anh). Universal Music Canada. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  42. ^ a b McNutt 2020, tr. 73–74.
  43. ^ Tuấn Vĩ (ngày 19 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift phát hành album nhạc pop đầu tiên”. Thể thao & Văn hóa. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  44. ^ a b c Mansfield, Brian (ngày 18 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift debuts 'Shake It Off,' reveals '1989' album” [Taylor Swift ra mắt 'Shake It Off', tiết lộ album '1989']. USA Today (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  45. ^ a b c d Aswad, Jem (ngày 24 tháng 10 năm 2014). “Album Review: Taylor Swift's Pop Curveball Pays Off With 1989 [Đánh giá album: Đường cong nhạc pop của Taylor Swift được đền đáp xứng đáng với 1989]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  46. ^ Pettifer, Amy (ngày 27 tháng 11 năm 2014). “Reviews: Taylor Swift, 1989 [Đánh giá: Taylor Swift, 1989]. The Quietus (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  47. ^ Mathieson, Craig (ngày 31 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's New Album 1989 Defies Expectations” [Album mới 1989 của Taylor Swift thách thức mọi kỳ vọng]. The Sydney Morning Herald (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  48. ^ a b c d Eakin, Marah (ngày 28 tháng 10 năm 2014). “With 1989, Taylor Swift finally grows up”. The A.V. Club. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2015.
  49. ^ Bealsey, Corey (ngày 31 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift: 1989” [Taylor Swift: 1989]. PopMatters (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  50. ^ a b c d e f Horton, Matthew (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift – 1989 [Taylor Swift – 1989]. NME (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  51. ^ Kreps, Daniel (ngày 14 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift Unveils Synth-Heavy 'Out of the Woods' [Taylor Swift trình làng ca khúc 'Out of the Woods' đậm chất synth]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  52. ^ Lipshutz, Jason (ngày 18 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift's Shake It Off: Single Review” [Shake It Off của Taylor Swift: Đánh giá đĩa đơn]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  53. ^ Frank, Alex (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “The Simple Pleasures of Taylor Swift's New Album, 1989 [Niềm vui giản dị trong album mới của Taylor Swift, 1989]. Vogue (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  54. ^ Sheffield, Rob (ngày 22 tháng 12 năm 2014). “Rob Sheffield's Top 25 Songs of 2014” [25 bài hát hay nhất năm 2014 theo Rob Sheffield]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  55. ^ McNutt 2020, tr. 80.
  56. ^ Empire, Kitty (ngày 26 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift: 1989 Review – A Bold, Gossipy Confection” [Taylor Swift: Đánh giá 1989 – Một nhạc phẩm ngọt tai táo bạo và đầy chuyện]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  57. ^ Leedham, Robert (ngày 30 tháng 10 năm 2014). “Album Review: Taylor Swift – 1989 [Đánh giá album: Taylor Swift – 1989]. Drowned in Sound (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  58. ^ a b Graff, Gary (ngày 24 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift to the Haters: 'If You're Upset That I'm Just Being Myself, I'm Going to Be Myself More' [Taylor Swift nói với những người ghét mình: 'Nếu mấy người buồn vì tôi chỉ là chính mình thì tôi sẽ là chính mình nhiều hơn']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  59. ^ He, Richard (ngày 9 tháng 11 năm 2017). “Why Taylor Swift's 1989 Is Her Best Album” [Vì sao 1989 của Taylor Swift là album hay nhất của cô ấy]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  60. ^ Donella, Leah (ngày 26 tháng 9 năm 2018). “Taylor Swift Is The 21st Century's Most Disorienting Pop Star” [Taylor Swift là ngôi sao nhạc pop mất phương hướng nhất thế kỷ 21] (bằng tiếng Anh). NPR. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  61. ^ Shuker 2016, tr. 84; Sloan 2021, tr. 16.
  62. ^ a b Jagoda, Vrinda (ngày 19 tháng 8 năm 2019). “Taylor Swift: 1989 Album Review” [Taylor Swift: Đánh giá album 1989]. Pitchfork (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  63. ^ a b Mansfield, Brian (ngày 23 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift Reaches Fans with 'Their Story' [Taylor Swift tiếp cận người hâm mộ bằng 'câu chuyện của họ']. USA Today (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  64. ^ Peng, Chelsea (ngày 20 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's New Album Isn't Going To Be About Romance” [Album mới của Taylor Swift sẽ không đề cập đến chuyện tình cảm]. Marie Claire (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  65. ^ a b Smith, Grady (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift: The Hidden Meaning in 1989's Album Notes – And an Aphex Twin Mashup” [Taylor Swift: Ý nghĩa ẩn giấu trong ghi chú album 1989 – Và bản mashup Aphex Twin]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2024.
  66. ^ “Taylor Swift on What Inspired Her Song, 'Welcome to New York' [Taylor Swift kể về điều gì đã truyền cảm hứng cho bài hát mới của cô ấy, 'Welcome to New York'] (bằng tiếng Anh). Good Morning America. ngày 20 tháng 10 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  67. ^ Wickman, Forrest (ngày 20 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's Pro-Gay "Welcome to New York" Takes Her Further Than Ever From Nashville” [Ca khúc ủng hộ người đồng tính của Taylor Swift "Welcome to New York" đã đưa cô ấy đi xa hơn bao giờ hết từ Nashville]. Slate (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  68. ^ a b c Lansky, Sam (ngày 23 tháng 10 năm 2014). “Review: 1989 Marks a Paradigm Swift” [Đánh giá: 1989 đánh dấu một hình mẫu Swift]. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  69. ^ a b c Wood, Mikael (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift Smooths Out the Wrinkles on Sleek 1989 [Taylor Swift tươm tất khoe kiểu dáng đẹp 1989]. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  70. ^ Petridis, Alexis (ngày 26 tháng 4 năm 2019). “Taylor Swift's Singles – Ranked” [Đĩa đơn của Taylor Swift – Xếp hạng]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  71. ^ Sargent, Jordan (ngày 15 tháng 12 năm 2014). “The 100 Best Tracks of 2014: Taylor Swift, "Style" [100 ca khúc hay nhất năm 2014: Taylor Swift, "Style"]. Pitchfork (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  72. ^ a b c Unterberger, Andrew (ngày 28 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift Gets Clean, Hits Reset on New Album '1989' [Taylor Swift trở nên gột rửa, làm mới các bản hit trong album mới '1989']. Spin (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  73. ^ Mylrea, Hannah (ngày 8 tháng 9 năm 2020). “Every Taylor Swift Song Ranked In Order of Greatness” [Mọi bài hát của Taylor Swift đều được xếp hạng theo mức độ hay]. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  74. ^ a b Iasimone, Ashley (ngày 11 tháng 10 năm 2015). “Taylor Swift Shares the Stories Behind 'Out of the Woods' & 'I Know Places' [Taylor Swift chia sẻ câu chuyện đằng sau 'Out of the Woods' và 'I Know Places']. Billboard (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  75. ^ Inocencio, Marc (ngày 14 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift Unveils New Song 'Out of the Woods' off 1989 Album: Listen” [Taylor Swift hé lộ ca khúc mới 'Out of the Woods' từ album 1989: Hãy cùng nghe] (bằng tiếng Anh). iHeartMedia. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  76. ^ Willman, Chris (ngày 28 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift and 89 Fans Party Like It's '1989' on New York Rooftop” [Taylor Swift và 89 người hâm mộ tiệc tùng như đây là năm '1989' trên sân thượng New York] (bằng tiếng Anh). Yahoo! Music. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  77. ^ Kreps, Daniel (ngày 19 tháng 10 năm 2015). “See Ryan Adams, Taylor Swift Discuss 1989, Songwriting” [Hãy xem Ryan Adams, Taylor Swift thảo luận về 1989, sáng tác ca khúc]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  78. ^ Feeney, Nolan (ngày 18 tháng 8 năm 2014). “Watch Taylor Swift Show Off Her Dance Moves in New 'Shake It Off' Video” [Xem Taylor Swift thể hiện những bước nhảy của cô ấy trong video 'Shake It Off' mới]. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  79. ^ Lipshutz, Jason (ngày 18 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift's 'Shake It Off' Single Review: The Country Superstar Goes Full Pop” [Đánh giá đĩa đơn 'Shake It Off' của Taylor Swift: Siêu sao nhạc đồng quê thể hiện phong cách nhạc pop hoàn toàn]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  80. ^ Geffen, Sasha (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift – 1989 | Album Reviews” [Taylor Swift – 1989 | Đánh giá album]. Consequence of Sound (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  81. ^ a b Baesley, Corey (ngày 30 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift: 1989 [Taylor Swift: 1989]. PopMatters (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  82. ^ a b Galvin, Annie (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “Review: Taylor Swift, 1989 [Đánh giá: Taylor Swift, 1989]. Slant Magazine (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2014.
  83. ^ Lang, Cady (ngày 17 tháng 7 năm 2019). “A Comprehensive Guide to the Taylor Swift-Katy Perry Feud From 2009 to the 'You Need to Calm Down' Happy Meal Reunion” [Hướng dẫn toàn diện về mối thù Taylor Swift-Katy Perry từ năm 2009 đến Happy Meal đoàn tụ ở 'You Need to Calm Down']. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  84. ^ a b Petridis, Alexis (ngày 24 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift: 1989 Review – Leagues Ahead of the Teen-Pop Competition” [Taylor Swift: Đánh giá 1989 – Những bước tiến trước cuộc thi teen-pop]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  85. ^ Lee, Esther; Drew, Ian (ngày 14 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift Explains Why She Gave Up on Men: "It Broke My Heart!" [Taylor Swift giải thích lý do từ bỏ đàn ông: "Tim tôi đã tan nát!"]. Us Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  86. ^ a b c Sheffield, Rob (ngày 24 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift, 1989, review: 'When it comes to Taylor Swift and supercatchy Eighties pop gloss, too much is never enough'. Rolling Stone. Wenner Media LLC. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2014.
  87. ^ a b McCormick, Neil (ngày 24 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift, 1989, review: 'full of American fizz'. The Telegraph. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2014.
  88. ^ Sheffield, Rob (ngày 26 tháng 10 năm 2021). “All 199 of Taylor Swift's Songs, Ranked by Rob Sheffield” [Tất cả 199 bài hát của Taylor Swift, được xếp hạng theo Rob Sheffield]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  89. ^ Greenwald, David (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's 1989 Loses More than Country” [1989 của Taylor Swift đánh mất nhiều hơn đồng quê]. The Oregonian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  90. ^ Gevinson, Tavi (ngày 7 tháng 5 năm 2015). “Taylor Swift Has No Regrets” [Taylor Swift không có hối tiếc gì cả]. Elle (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  91. ^ Sheffield, Rob (ngày 21 tháng 9 năm 2017). “All 129 of Taylor Swift Songs Ranked: New Romantics” [Tất cả 129 bài hát của Taylor Swift được xếp hạng: New Romantics]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  92. ^ a b Iasimone, Ashley (ngày 20 tháng 2 năm 2016). “Taylor Swift's 'New Romantics' Set as Next '1989' Single” ['New Romantics' của Taylor Swift sẽ là đĩa đơn '1989' tiếp theo]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  93. ^ Wilson, Carl (ngày 29 tháng 10 năm 2014). “Contemplating Taylor Swift's Navel” [Chiêm ngưỡng rốn của Taylor Swift]. Slate (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  94. ^ a b Bonanos, Christopher (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “A Close Examination of Taylor Swift's 1989 Cover” [Soi kỹ ảnh bìa 1989 của Taylor Swift]. Vulture (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  95. ^ a b c Williamson, Jason (ngày 15 tháng 12 năm 2014). “Beyond 1989: Taylor Swift and Polaroids” [Ngoài 1989: Taylor Swift và các Polaroid]. The Line of Best Fit (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  96. ^ a b Dickey, Jack (ngày 13 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift on 1989, Spotify, Her Next Tour and Female Role Models” [Taylor Swift trò chuyện về 1989, Spotify, chuyến lưu diễn tiếp theo của cô ấy và hình mẫu phụ nữ]. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  97. ^ a b Rothman, Michael (ngày 19 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift Explains Meaning Behind Cover of New Album 1989 [Taylor Swift giải thích ý nghĩa đằng sau bìa album mới 1989] (bằng tiếng Anh). ABC News. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  98. ^ Siroky, Mary biên tập (ngày 26 tháng 10 năm 2022). “Taylor Swift Albums Ranked From Worst To Best” [Album của Taylor Swift được xếp hạng từ tệ nhất đến hay nhất]. Consequence (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  99. ^ Leonard, Devin (ngày 12 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift and Big Machine Are The Music Industry” [Taylor Swift và Big Machine là ngành công nghiệp âm nhạc]. Bloomberg Businessweek (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  100. ^ a b Garibaldi, Christina (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “Here Are the Secret Messages Hidden in 1989 [Đây là những thông điệp bí mật được ẩn giấu trong 1989] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  101. ^ “Taylor Swift Album Cover Boosts Vintage Polaroid Sales” [Bìa album của Taylor Swift thúc đẩy doanh số bán máy ảnh Polaroid cổ điển]. The New Zealand Herald (bằng tiếng Anh). ngày 9 tháng 8 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  102. ^ “The 50 Greatest Album Covers of All Time” [50 bìa album xuất sắc nhất mọi thời đại]. Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 16 tháng 3 năm 2022. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2024.
  103. ^ Strecker, Erin (ngày 25 tháng 11 năm 2013). “Taylor Swift Teases New Album”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2014.
  104. ^ Hyndman, Jessica (ngày 6 tháng 8 năm 2014). “What's Taylor Swift's Big Surprise? Here Are the Craziest Theories”. MTV. Viacom. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2014.
  105. ^ Strecker, Erin (ngày 7 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift Drops Two More Clues About New Music”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2014.
  106. ^ Stutz, Colin (ngày 10 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift Admits to Stalking Fans Online for '1989' Secret Listening Sessions”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2014.
  107. ^ Stutz, Colin (ngày 16 tháng 10 năm 2014). “Watch Taylor Swift's '1989' Secret Sessions Behind The Scenes Video”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2016.
  108. ^ Vena, Jocelyn (ngày 11 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift Calls London's #1989SecretSessions 'Outrageous and Hilarious'. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2016.
  109. ^ a b “Taylor Swift's 'Out of the Woods' Has Arrived... with Lyrics: Listen”. Billboard. Prometheus Global Media. ngày 14 tháng 10 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2014.
  110. ^ “Taylor Swift Instagrams '1989' Lyrics”. Billboard. Prometheus Global Media. ngày 24 tháng 10 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2014.
  111. ^ Feener, Noley (ngày 20 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's 'Welcome to New York' Is the Musical Equivalent of a Peppermint Latte”. Time. Viacom. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2014.
  112. ^ Lynch, Joe (ngày 17 tháng 10 năm 2014). “Alleged Track List for Taylor Swift's '1989' Hits Twitter”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2016.
  113. ^ Walker, John (ngày 22 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift Reveals Her 1989 Track List: Panic Accordingly”. MTV. Viacom. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2014.
  114. ^ O'Neil, Lorena (ngày 22 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift Tops Canadian iTunes Chart With Eight Seconds of White Noise”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2016.
  115. ^ Feeney, Nolan (ngày 22 tháng 10 năm 2014). “A Totally Serious Analysis of Taylor Swift's Genre-Defying 8 Seconds of Static, 'Track 3'. Time. Time Inc. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2015.
  116. ^ France, Lisa Respers (ngày 22 tháng 10 năm 2014). “Even Taylor Swift's silence is golden”. CNN. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2015.
  117. ^ O'Neil, Lauren (ngày 21 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift accidentally releases 8 seconds of white noise, tops Canadian iTunes chart”. Canadian Broadcasting Corporation. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 8 năm 2015.
  118. ^ Aswad, Jem (ngày 31 tháng 10 năm 2014). “The Elaborate High-Security Tactics Behind Taylor Swift's Album Release”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2016.
  119. ^ a b c Mandell, Andrea (ngày 25 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's new album, '1989,' leaked”. USA Today. Gannett Corporation. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2016.
  120. ^ Weber, Lindsey (ngày 24 tháng 10 năm 2014). “Blame Canada for Leaking Taylor Swift's New Album”. Vulture. New York. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2016.
  121. ^ a b c d Caulfield, Keith (ngày 28 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's '1989' Heading for 1 Million Sales Debut”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2016.
  122. ^ Stutz, Colin (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift Live Broadcasts Manhattan Rooftop 'Secret Session'. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2016.
  123. ^ a b “iTunes - Music - 1989 by Taylor Swift”. iTunes Store (US) (bằng tiếng Anh). Apple, Inc. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2014.
  124. ^ a b “Taylor Swift - 1989 (Deluxe Edition) - Target Exclusive”. Target.com (bằng tiếng Anh). Target Brands, Inc. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2014.
  125. ^ a b "1989" von Taylor Swift” (bằng tiếng Đức). iTunes Store (DE). Apple Inc. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2014.
  126. ^ a b "1989 (Deluxe)" von Taylor Swift” (bằng tiếng Đức). iTunes Store (DE). Apple Inc. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2014.
  127. ^ a b “1989” (bằng tiếng Đức). Amazon.com (DE) Amazon.com Inc. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2014.
  128. ^ a b “1989 (Deluxe Edt.)” (bằng tiếng Đức). Amazon.com (DE) Amazon.com Inc. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2014.
  129. ^ a b “1989 by Taylor Swift” (bằng tiếng Anh). iTunes Store (UK). Apple Inc. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2014.
  130. ^ a b “1989 (Deluxe) by Taylor Swift” (bằng tiếng Anh). iTunes Store (GB). Apple Inc. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2014.
  131. ^ a b “1989” (bằng tiếng Anh). Amazon.com (UK) Amazon.com Inc. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2014.
  132. ^ a b “1989 (Deluxe Edition)” (bằng tiếng Anh). Amazon.com (UK) Amazon.com Inc. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2014.
  133. ^ Stutz, Colin (ngày 29 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's Entire '1989' Album Selling for 99 Cents”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2015.
  134. ^ a b Lipshutz, Jason (ngày 17 tháng 2 năm 2015). “Taylor Swift Releasing '1989' Bonus Songs to iTunes”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2015.
  135. ^ “Wonderland — Single by Taylor Swift”. iTunes Store. Apple. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2015.
  136. ^ Dương Trần (ngày 8 tháng 7 năm 2014). “Taylor Swift: Âm nhạc không nên là hàng miễn phí”. Thể thao & Văn hóa. Thông tấn xã Việt Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2016.
  137. ^ Peters, Mitchell (ngày 7 tháng 7 năm 2014). “Taylor Swift Shares Optimistic View of the Music Industry In Wall Street Journal Op-Ed”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2016.
  138. ^ a b Flanagan, Andrew (ngày 3 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift Catalog Removed From Spotify”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2014.
  139. ^ Bảo Toàn (ngày 4 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift gây sốc khi thu hồi tất cả các album”. Một thế giới. Hội Thông tin Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2014.
  140. ^ a b Peters, Mitchell (ngày 8 tháng 11 năm 2014). “Big Machine's Scott Borchetta Explains Why Taylor Swift Was Removed From Spotify”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2014.
  141. ^ a b Hern, Alex (ngày 28 tháng 10 năm 2014). “Why is Taylor Swift's 1989 not on Spotify? Because she doesn't want it there”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2016.
  142. ^ Ngọc Nguyễn (ngày 5 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift khiến hãng nhạc trực tuyến hàng đầu 'mất mặt' trước IPO”. Thời báo tài chính Việt Nam. Bộ Tài chính. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2014.
  143. ^ Engel, Pamela (ngày 3 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift Pulls All Of Her Albums From Spotify”. Business Insider. Axel Springer SE. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2014.
  144. ^ Knopper, Steve (ngày 8 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift Pulled Music From Spotify for 'Superfan Who Wants to Invest,' Says Rep”. Rolling Stone. Wenner Media. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2014.
  145. ^ Stutz, Colin (ngày 18 tháng 6 năm 2015). “Taylor Swift's '1989' Won't Be on Apple Music When It Launches”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2016.
  146. ^ a b Peters, Mitchell (ngày 21 tháng 6 năm 2015). “Taylor Swift Pens Open Letter Explaining Why '1989' Won't Be on Apple Music”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2016.
  147. ^ Bajarin, Tim (ngày 30 tháng 6 năm 2015). “How Taylor Swift Saved Apple Music”. Time. Time Inc. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2016.
  148. ^ a b Andriakos, Jacqueline (ngày 22 tháng 6 năm 2015). “Apple Responds to Taylor Swift's Open Letter, Says It Will Pay Artists During Apple Music Free Trial Period: 'We Hear You'. People. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2016.
  149. ^ Halperin, Shirley (ngày 21 tháng 6 năm 2015). “Apple Changes Course After Taylor Swift Open Letter: Will Pay Labels During Free Trial”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2016.
  150. ^ Bakare, Lanre (ngày 25 tháng 6 năm 2015). “Taylor Swift allows Apple to stream her album 1989”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2016.
  151. ^ a b c Brandle, Lars (ngày 6 tháng 6 năm 2017). “Taylor Swift's Entire Catalog Is Now on Spotify & Other Streaming Services: Go Listen”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2017.
  152. ^ Kreps, Daniel (ngày 4 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift Reveals Massive 1989 World Tour”. Rolling Stones. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2014.
  153. ^ Strecker, Erin (ngày 3 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift Announces '1989' World Tour Dates”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2015.
  154. ^ a b Hosken, Patrick (ngày 12 tháng 12 năm 2015). “Taylor Swfit's 1989 World Tour Might Be Over, But The Experience Lives On”. MTV. Viacom. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  155. ^ a b c Iasimone, Ashley (ngày 12 tháng 12 năm 2015). “Taylor Swift Says Farewell to 1989 Tour's 'Incredible Adventure'. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  156. ^ Schwartz, Rob (ngày 5 tháng 5 năm 2015). “Taylor Swift Kicks Off 1989 Tour in Tokyo, Talks About Her Life-Changing Year”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2015.
  157. ^ “Taylor Swift's '1989' Tour Guest Stars: Where the Singer's 78 BFFs Rank on a High-School Clique Scale”. Billboard. Prometheus Global Media. ngày 11 tháng 12 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2016.
  158. ^ McIntyre, Hugh (ngày 9 tháng 12 năm 2015). “Meet Taylor Swift's 1989 World Tour Opening Acts”. Forbes. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2016.
  159. ^ “2015 Year-End top 20 Worldwide Tours” (PDF). Pollstar. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 3 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2016.
  160. ^ Willens, Max (8 tháng 1 năm 2016). “Taylor Swift Did Something In 2015 That No Female Musician Has Ever Done Before”. International Business Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2016.
  161. ^ Sheffield, Rob (ngày 11 tháng 7 năm 2015). “Taylor Swift's Epic '1989' Tour: Every Night With Us Is Like a Dream”. Rolling Stones (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2016.
  162. ^ Pollock, David (ngày 23 tháng 6 năm 2015). “Taylor Swift, Hydro Glasgow, gig review: Two-hour hyperactive spectacle is a triumph for both the artist and her fans”. The Independent (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2016.
  163. ^ Virtue, Graeme (ngày 25 tháng 6 năm 2015). “Taylor Swift review – intimacy on a grand scale from pop's latest superpower”. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2016.
  164. ^ Peters, Mitchell (ngày 13 tháng 12 năm 2015). “Taylor Swift '1989 World Tour Live' Concert Film Coming to Apple Music: Watch Trailer”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2016.
  165. ^ Iasimone, Ashley (ngày 20 tháng 12 năm 2015). “Taylor Swift's 1989 Tour Film Is Here: Watch 'Wildest Dreams' and a Behind-the-Scenes Video”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2016.
  166. ^ Việt Lâm (ngày 29 tháng 10 năm 2014). 'Công chúa nhạc country' trổ tài với nhạc pop”. Thể thao & Văn hóa. Thông tấn xã Việt Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2014.
  167. ^ Trust, Gary (ngày 27 tháng 8 năm 2014). “Taylor Swift's 'Shake It Off' Debuts At No. 1 On Hot 100”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2014.
  168. ^ Lipshutz, Jason (ngày 30 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift Next '1989' Single Is...”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2014.
  169. ^ Trust, Gary (ngày 31 tháng 12 năm 2014). “Taylor Swift Helps Tie Record Streak for Women Atop Hot 100”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2016.
  170. ^ Trust, Gary (ngày 19 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift makes Hot 100 History”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2014.
  171. ^ Kevipod (ngày 13 tháng 1 năm 2015). “It's Real: "Style" Is Taylor Swift's Next Single From "1989" (We're Happy, Are You?)”. Direct Lyrics. United States. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2015.
  172. ^ Caulfield, Keith (ngày 11 tháng 3 năm 2015). “Mark Ronson & Bruno Mars Notch 10th Week Atop Hot 100”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2016.
  173. ^ “Listen to Taylor Swift's 'Bad Blood' ft. Kendrick Lamar: World Premiere”. iHeartRadio. iHeartMedia, Inc. ngày 17 tháng 5 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2015.
  174. ^ a b Trust, Gary (ngày 28 tháng 5 năm 2015). “Taylor Swift's 'Bad Blood' Blasts to No. 1 on Hot 100”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2015.
  175. ^ Trust, Gary (ngày 24 tháng 11 năm 2015). “Taylor Swift Tallies First Dance/Mix Show Airplay No. 1 With 'Wildest Dreams'. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2015.
  176. ^ “Taylor Swift releases Out of the Woods music video on New Year's Eve”. The Guardian. ngày 1 tháng 1 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2016.
  177. ^ Trust, Gary (ngày 22 tháng 10 năm 2014). “Meghan Trainor Rules Hot 100, Ed Sheeran Hits Top 10, Glen Campbell Returns”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2014.
  178. ^ “Taylor Swift – Chart History: Hot 100”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2012.
  179. ^ “Taylor Swift – Chart history”. Billboard Adult Pop Songs của Taylor Swift. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2014.
  180. ^ “Taylor Swift – Chart history”. Billboard Mainstream Top 40 của Taylor Swift. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2014.
  181. ^ “Chứng nhận Hoa Kỳ – Taylor Swift” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2015.
  182. ^ a b “1989 by Taylor Swift”. Metacritic. CBS Interactive. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2014.
  183. ^ Erlewine, Stephen Thomas. “1989 - Taylor Swift - Songs, Reviews, Credits, Awards”. AllMusic. Rovi Corporation. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2014.
  184. ^ a b Markovitz, Adam (ngày 11 tháng 11 năm 2014). “1989 (2014)”. Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2014.
  185. ^ a b Petridis, Alexis (ngày 24 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift: 1989 review – leagues ahead of the teen-pop competition”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2014.
  186. ^ Dibdin, Emma (ngày 24 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift 1989 album review: "Lighter, catchier and more calculated". Digital Spy. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2014.
  187. ^ Gill, Andy (ngày 24 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift, 1989 - album review: Pop star shows 'promising signs of maturity'. The Independent. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2014.
  188. ^ Farber, Jim (ngày 23 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's '1989': Album Review”. New York Daily News. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2014.
  189. ^ Manning, Craig (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift - 1989 - Album Review”. AbsolutePunk. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2014.
  190. ^ “50 Best Albums of 2014”. Rolling Stone. ngày 1 tháng 12 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2015.
  191. ^ “The 10 Best Albums of 2014”. Billboard. Prometheus Global Media. ngày 11 tháng 12 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2016.
  192. ^ Thompson, Eliza (2 tháng 12 năm 2014). “The 20 Best Albums of 2014”. Cosmopolitan. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2014.
  193. ^ Feeney, Nolan (ngày 2 tháng 12 năm 2014). “Top 10 Best Albums”. Time. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2014.
  194. ^ “The 50 Best Albums of 2014”. Pitchfork Media. ngày 17 tháng 12 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2016.
  195. ^ Caramanica, Jon (ngày 11 tháng 12 năm 2014). “Jon Caramanica's Top 10 Albums of 2014”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2015.
  196. ^ “The Japan Gold Disc Award 2015 – Album của năm” (bằng tiếng Nhật). Japan Gold Disc Award. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2015.
  197. ^ Brunner, Ula (ngày 27 tháng 3 năm 2015). “Die Helene-Fischer-Festspiele haben begonnen” (bằng tiếng Đức). Rundfunk Berlin-Brandenburg. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2015.
  198. ^ Bliss, Karen (ngày 27 tháng 1 năm 2015). “Magic!, Kiesza and Leonard Cohen Lead Juno Awards Nominations”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2016.
  199. ^ “Billboard Music Awards 2015: See the Finalists”. Billboard. Prometheus Global Media. ngày 17 tháng 5 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2017.
  200. ^ “Billboard Music Awards 2016: See the Finalists”. Billboard. Prometheus Global Media. ngày 11 tháng 4 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2016.
  201. ^ “American Music Awards 2015: Check Out All the Winners Here”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2015.
  202. ^ “Grammys awards 2016: full list of winners”. The Guardian. ngày 16 tháng 2 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2016.
  203. ^ a b c Caulfield, Keith (ngày 4 tháng 11 năm 2014). “Official: Taylor Swift's '1989' Debuts With 1.287 Million Sold In First Week”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2015.
  204. ^ Lewis, Randy (ngày 4 tháng 11 năm 2014). “First week for Taylor Swift's '1989' album? 1.287 million in sales”. Los Angeles Times. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2017.
  205. ^ France, Lisa Respers (ngày 6 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift's '1989' has biggest sales week since 2002”. CNN. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2016.
  206. ^ Caulfield, Keith (ngày 12 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift's '1989' Spends Second Week at No. 1 on Billboard 200 Chart”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2014.
  207. ^ Caulfield, Keith (ngày 20 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift's '1989' No. 1 for Third Week on Billboard 200”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2014.
  208. ^ Grein, Paul (ngày 20 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift at No. 1 for Third Week; Ties Eminem's Record”. Yahoo! Music. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2014.
  209. ^ Caulfield, Keith (ngày 3 tháng 12 năm 2014). “Taylor Swift's '1989' Returns to No. 1 on Revamped Billboard 200”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2014.
  210. ^ Caulfield, Keith (ngày 31 tháng 12 năm 2014). “Taylor Swift's '1989' Spends Seventh Week at No. 1 on Billboard 200”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2014.
  211. ^ Caulfield, Keith (ngày 31 tháng 12 năm 2014). “Taylor Swift's '1989' Beats 'Frozen' As Top Selling Album of 2014”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2015.[liên kết hỏng]
  212. ^ a b Caulfield, Keith (ngày 7 tháng 1 năm 2015). “Taylor Swift's '1989' Earns Eighth Week at No. 1 on Billboard 200 Chart”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2015.[liên kết hỏng]
  213. ^ Grein, Paul (ngày 16 tháng 1 năm 2015). “Taylor Swift's '1989': 4M Sales in Just 12 Weeks”. Yahoo! Music. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2015.
  214. ^ Grein, Paul (ngày 21 tháng 1 năm 2015). “Meghan Trainor's Debut Album Arrives at #1”. Yahoo! Music. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2015.
  215. ^ Caulfield, Kevin (ngày 24 tháng 1 năm 2015). “Taylor Swift's '1989' Hits 4 Million in U.S. Sales”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2015.
  216. ^ Caulfield, Keith (ngày 11 tháng 2 năm 2015). “Taylor Swift's '1989' Spends Eleventh Week at No. 1 on Billboard 200 Chart Chart”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2015.[liên kết hỏng]
  217. ^ Caulfield, Keith (ngày 15 tháng 4 năm 2015). 'Furious 7' Soundtrack Speeds to No. 1 on Billboard 200 Chart”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2015.[liên kết hỏng]
  218. ^ Caulfield, Keith (ngày 13 tháng 3 năm 2015). “Taylor Swift's '1989' Has Outsold Her Last Two Albums”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2015.
  219. ^ Caulfield, Keith (ngày 27 tháng 10 năm 2015). “Taylor Swift's '1989' Only Fifth Album to Spend First Year in Billboard 200's Top 10”. Billboard. Prometheus Global Media. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2015.
  220. ^ Caulfield, Keith (ngày 8 tháng 11 năm 2015). “Chris Stapleton Soars to No. 1 on Billboard 200 Albums Chart After CMAs”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2015.
  221. ^ a b Grein, Paul (ngày 10 tháng 1 năm 2017). “Chart Watch: Four Soundtracks Make the Top 10 in a 'Golden' Week”. Yahoo! Music. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2017.
  222. ^ a b Cross, Alan (ngày 5 tháng 11 năm 2014). “Weekly Music Sales and Analysis: ngày 5 tháng 11 năm 2014”. A Journal of Musical Things. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2014.
  223. ^ Alan Cross (ngày 12 tháng 11 năm 2014). “Weekly Music Sales and Analysis: ngày 12 tháng 11 năm 2014”. A Journal of Musical Things. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2014.
  224. ^ a b Bliss, Karen (ngày 27 tháng 1 năm 2015). “Nielsen: Canada Loved Taylor Swift, Streaming Music and, Yep, Vinyl in 2014”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2015.
  225. ^ Moss, Liv (ngày 2 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift scores fastest selling female album of the year so far”. UK Albums Chart. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2014.
  226. ^ a b Copsey, Rob (ngày 14 tháng 4 năm 2016). “Taylor Swift's New Romantics music video gets full release”. Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2016.
  227. ^ “Chartifacts - Tuesday 4th November 2014”. ARIA Charts. ngày 4 tháng 11 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2014.
  228. ^ “Taylor Swift album 1989 is Australia's fastest-selling album of 2014”. News.com.au. ngày 3 tháng 11 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2014.
  229. ^ Eliezer, Christie (ngày 6 tháng 11 năm 2014). “Report: Taylor Swift's 1989 Sales Buzz In US, Australia”. The Music Network. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2014.
  230. ^ “IFPI publishes Digital Music Report 2015”. Liên đoàn Công nghiệp ghi âm Quốc tế. ngày 14 tháng 4 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2015.
  231. ^ “Global Music Report 2016” (PDF). Liên đoàn Công nghiệp ghi âm Quốc tế. ngày 12 tháng 4 năm 2016. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 12 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2016.
  232. ^ a b c Sisario, Ben (ngày 22 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's '1989' Carries High Hopes but No Country Music”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2014.
  233. ^ a b c d Christman, Keith Caulfield và William Gruger, Ed (ngày 7 tháng 11 năm 2014). “The Roadmap to Taylor Swift's Record-Breaking Week in 6 (Not So Easy) Steps”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2014.
  234. ^ a b Mansfield, Brian (ngày 4 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift's '1989' sells 1.287 million in first week”. USA Today. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2015.
  235. ^ Knopper, Steve (ngày 21 tháng 10 năm 2014). “Can Taylor Swift's '1989' Save Ailing Music Industry?”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2015.
  236. ^ Caulfield, Keith (ngày 23 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's '1989' Sales Forecast Grows”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2015.
  237. ^ Caulfield, Keith (ngày 27 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's '1989' Aiming For 900,000-Plus Sales Debut”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2015.
  238. ^ a b Caulfield, Keith (ngày 29 tháng 10 năm 2014). “Taylor Swift's '1989' Surging Toward 1.2 Million Debut”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2015.
  239. ^ Caulfield, Keith (2 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift's '1989' Set for Biggest Sales Week Since 2002: 1.3 Million-Plus”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2017. Truy cập 2 tháng 11 năm 2014.
  240. ^ T.Vũ (ngày 3 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift lập kỷ lục bán đĩa”. Người Lao động. Liên đoàn Lao động Thành phố Hồ Chí Minh. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2014.
  241. ^ Caulfield, Keith (ngày 4 tháng 11 năm 2014). '1989' Debuts at No. 1! See Taylor Swift's Career Timeline”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2014.
  242. ^ Christman, Ed (ngày 31 tháng 10 năm 2014). “Where Are People Buying Taylor Swift's '1989'? A Retail Breakdown of (Probably) the Year's Biggest Album”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2015.
  243. ^ Lynch, Joe (ngày 14 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift's America: See '1989' Album Sales By Region”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2014.
  244. ^ Caulfield, Keith (ngày 5 tháng 11 năm 2014). “Taylor Swift Collects Fourth No. 1 Album, 'Now 52' Debuts at No. 2”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2015.
  245. ^ Greenburg, Zack O'Malley (ngày 30 tháng 10 năm 2014). “Why Taylor Swift's '1989' Could Be The Last Platinum Album Ever”. Forbes. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2015.
  246. ^ Hạ Huyền (ngày 3 tháng 11 năm 2014). “Album '1989': Đĩa bạch kim cuối cùng của mọi thời?”. Thể thao & Văn hóa. Thông Tấn xã Việt Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2014.
  247. ^ Nguồn tham khảo về phiên bản cao cấp của 1989:
  248. ^ “1989 -Deluxe Edition: Taylor Swift / HMV ONLINE - POCS-24009 [English Site]”. HMV Japan. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2017.
  249. ^ "Australiancharts.com – Taylor Swift – 1989" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2014.
  250. ^ "Austriancharts.at – Taylor Swift – 1989" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2014.
  251. ^ "Ultratop.be – Taylor Swift – 1989" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2014.
  252. ^ "Ultratop.be – Taylor Swift – 1989" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2014.
  253. ^ "Taylor Swift Chart History (Canadian Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2014.
  254. ^ "Top Stranih [Top Foreign]" (bằng tiếng Croatia). Top Foreign Albums. Hrvatska diskografska udruga. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2014.
  255. ^ "Czech Albums – Top 100". ČNS IFPI. Ghi chú: Trên trang biểu đồ này, chọn 201444 trên trường này ở bên cạnh từ "Zobrazit", và sau đó nhấp qua từ để truy xuất dữ liệu biểu đồ chính xác. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2014.
  256. ^ "Danishcharts.dk – Taylor Swift – 1989" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2014.
  257. ^ "Dutchcharts.nl – Taylor Swift – 1989" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2014.
  258. ^ "Taylor Swift: 1989" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2014.
  259. ^ "Lescharts.com – Taylor Swift – 1989" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2014.
  260. ^ "Longplay-Chartverfolgung at Musicline" (bằng tiếng Đức). Musicline.de. Phononet GmbH. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2014 – qua Wayback Machine. Ghi chú: Di chuyển ngày lưu trữ mới nhất (còn hoạt động) để có thông tin chính xác về thứ hạng của album.
  261. ^ “Official IFPI Charts Top-75 Albums Sales Chart” (bằng tiếng Hy Lạp). IFPI Greece. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2014.
  262. ^ "Album Top 40 slágerlista – 2014. 44. hét" (bằng tiếng Hungary). MAHASZ. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2014.
  263. ^ "GFK Chart-Track Albums: Week 44, 2014". Chart-Track. IRMA. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2014.
  264. ^ "Italiancharts.com – Taylor Swift – 1989" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2014.
  265. ^ 10 tháng 11 năm 2014/ "Oricon Top 50 Albums: ngày 10 tháng 11 năm 2014" (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2014.
  266. ^ "South Korea Gaon International Album Chart". Trên trang này, chọn "2014.10.26~2014.11.01", sau đó "국외", để có được biểu đồ tương ứng. Gaon Chart Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2014.
  267. ^ a b “Los Más Vendidos 2015 - Mejor posición” (bằng tiếng Tây Ban Nha). AMPROFON. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2016.
  268. ^ "Charts.nz – Taylor Swift – 1989" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2014.
  269. ^ "Norwegiancharts.com – Taylor Swift – 1989" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2014.
  270. ^ "Oficjalna lista sprzedaży :: OLiS - Official Retail Sales Chart" (bằng tiếng Ba Lan). OLiS. Polish Society of the Phonographic Industry. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2015.
  271. ^ "Portuguesecharts.com – Taylor Swift – 1989" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2014.
  272. ^ 8 tháng 11 năm 2014/40/ "Official Scottish Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2014.
  273. ^ "Spanishcharts.com – Taylor Swift – 1989" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2014.
  274. ^ "Swedishcharts.com – Taylor Swift – 1989" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2014.
  275. ^ "Swisscharts.com – Taylor Swift – 1989" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2014.
  276. ^ 8 tháng 11 năm 2014/7502/ "Official Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2014.
  277. ^ "Taylor Swift Chart History (Billboard 200)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2014.
  278. ^ “End of Year Charts – ARIA Top 100 Albums 2014”. ARIA Charts. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2015.
  279. ^ “Jaaroverzichten 2014” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2014.
  280. ^ “Rapports Annuels 2014” (bằng tiếng Pháp). Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2014.
  281. ^ “2014 Year End Charts — Top Canadian Albums”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2014.
  282. ^ “Top 100 Album-Jahrescharts”. GfK Entertainment (bằng tiếng Đức). offiziellecharts.de. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2015.
  283. ^ “IRMA Best of Albums 2014”. IRMA. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2016.
  284. ^ “2014 Year-End Chart”. Oricon. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2014.
  285. ^ “Los Más Vendidos 2014” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas (AMPROFON). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 13 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2015.
  286. ^ “Top Selling Albums of 2014 | The Official New Zealand Music Chart”. Nztop40.co.nz. ngày 31 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2014.
  287. ^ Moss, Liv (ngày 1 tháng 1 năm 2015). “The Official Top 40 Biggest Selling Artist Albums of 2014”. Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2015.
  288. ^ Billboard 200 – 2014 Year-End Chart”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2015.
  289. ^ McCabe, Kathy (ngày 5 tháng 1 năm 2016). “ARIA chart for 2015 reveal the most popular music that Australia loves to turn up the volume on”. The Advertiser. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2016.
  290. ^ “Ö3 Austria Top 40 - Album Charts 2015”. Hitradio Ö3. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2016.
  291. ^ “2015 Year End Charts — Top Canadian Albums”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2015.
  292. ^ “JAAROVERZICHTEN - ALBUM 2015” (bằng tiếng Hà Lan). dutchcharts.nl. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2015.
  293. ^ “Top 100 Album-Jahrescharts”. GfK Entertainment (bằng tiếng Đức). offiziellecharts.de. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2016.
  294. ^ “IRMA Best of Albums 2015”. IRMA. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2016.
  295. ^ “2015 Year-End Chart”. Oricon. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2015.
  296. ^ “The Official NZ Music Charts - End of Year Charts 2015”. Nztop40.co.nz. ngày 31 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2016.
  297. ^ “Swiss Year-End Charts 2015”. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2015.
  298. ^ Copsey, Rob (ngày 5 tháng 1 năm 2016). “The Official Top 40 Biggest Artist Albums of 2015 revealed”. Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2016.
  299. ^ Billboard 200 – 2015 Year-End Chart”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2015.
  300. ^ Billboard Digital Albums – 2014 Year-End Chart”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2017.
  301. ^ “ARIA Top 100 Albums 2016”. Australian Recording Industry Association. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2017.
  302. ^ “Jaaroverzichten 2016 Albums”. Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2016.
  303. ^ “2016 Year End Charts — Top Canadian Albums”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2016.
  304. ^ “Top Selling Albums of 2016”. Recorded Music NZ. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2016.
  305. ^ “End of Year Albums Chart Top 100 – 2016”. Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2016.
  306. ^ “Top Billboard 200 Albums - Year-End 2016”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2016.
  307. ^ “Digital Albums Year End 2016”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2016.
  308. ^ “Greatest of All Time Billboard 200 Albums”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2015.
  309. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2015 Albums” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2016.
  310. ^ “Chứng nhận album Áo – Taylor Swift – 1989” (bằng tiếng Đức). IFPI Áo. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2015.
  311. ^ “Chứng nhận album Brasil – Taylor Swift – 1989” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Pro-Música Brasil. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2015.
  312. ^ “Chứng nhận album Canada – Taylor Swift – 1989” (bằng tiếng Anh). Music Canada. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2015.
  313. ^ “Chứng nhận album Đan Mạch – Taylor Swift – 1989” (bằng tiếng Đan Mạch). IFPI Đan Mạch. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2017. Scroll through the page-list below until year 2017 to obtain certification.
  314. ^ “Quels sont les tops musicaux de 2015 ?” (bằng tiếng Pháp). Pure charts in France. ngày 24 tháng 12 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2016.
  315. ^ “Gold-/Platin-Datenbank (Taylor Swift; '1989')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2016.
  316. ^ “Taylor Swift's '1989' is certified Triple Platinum in India”. MiD Day. ngày 11 tháng 11 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2016.
  317. ^ “Chứng nhận album Nhật Bản – Taylor Swift – 1989” (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2015. Chọn 2015年4月 ở menu thả xuống
  318. ^ “Certificaciones” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. Nhập Taylor Swift ở khúc dưới tiêu đề cột ARTISTA  và 1989 ở chỗ điền dưới cột tiêu đề TÍTULO'.
  319. ^ “Chứng nhận album New Zealand – Taylor Swift – 1989” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2015.
  320. ^ “Wyróżnienia – płyty CD - Archiwum - Przyznane w 2015 roku” (bằng tiếng Ba Lan). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Ba Lan. ngày 15 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2015.
  321. ^ “Gaon International Album Chart - 2014 Year-End” (bằng tiếng Hàn). Gaon. 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2015.
  322. ^ “Taylor Swift – 1989” (bằng tiếng Tây Ban Nha). El Portal de Música. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2015.
  323. ^ “The Official Swiss Charts and Music Community: Chứng nhận ('1989')” (bằng tiếng Đức). IFPI Thụy Sĩ. Hung Medien.
  324. ^ “Chứng nhận album Anh Quốc – Taylor Swift – 1989” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Chọn album trong phần Format. Chọn Bạch kim' ở phần Certification. Nhập 1989 vào mục "Search BPI Awards" rồi ấn Enter.
  325. ^ “Chứng nhận album Hoa Kỳ – Taylor Swift – 1989” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2016.
  326. ^ “1989 (Vinyl): Taylor Swift: Amazon.ca: Music”. Amazon.com (Canada) Amazon.com Inc. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2014.
  327. ^ “Taylor Swift: 1989 (Vinyl): Music”. Amazon.com (US) Amazon.com Inc. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2014.
  328. ^ “1989-[Licensee] - Taylor Swift|16,49TL” (bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ). dr.com.tr. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2014.
  329. ^ “Taylor Swift Karaoke: 1989 (Deluxe Edition)”. iTunes Store. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2015.
  330. ^ “1989 Karaoke (Limited Deluxe): Taylor Swift: Music”. Amazon.com (Canada) Amazon.com Inc. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2015.
  331. ^ “Taylor Swift Karaoke: 1989 by Taylor Swift”. iTunes Store. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2015.
  332. ^ “Taylor Swift Karaoke: 1989 [+digital booklet]: Taylor Swift: MP3 Downloads”. Amazon.com (US) Amazon.com Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2015.
  333. ^ “Taylor Swift: Taylor Swift Karaoke: 1989 [CD+G/DVD Combo]: Music”. Amazon.com (US) Amazon.com Inc. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2015.
  334. ^ “泰勒•史薇芙特:1989(CD 豪华版 附限量版文件夹)” (bằng tiếng Trung). Amazon.com. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2014.[liên kết hỏng]

Nguồn xuất bản[sửa | sửa mã nguồn]