I-6 (tàu ngầm Nhật)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu ngầm I-6 vào khoảng năm 1935 hay 1936
Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi I-6
Xưởng đóng tàu Kawasaki Dockyard Co., Kobe
Đặt lườn 14 tháng 10, 1932
Hạ thủy 31 tháng 3, 1934
Hoàn thành 15 tháng 5, 1935
Nhập biên chế 15 tháng 5, 1935
Xuất biên chế 15 tháng 12, 1938
Tái biên chế 1 tháng 4, 1939
Xóa đăng bạ 10 tháng 9, 1944
Số phận Bị đánh chìm gần Saipan, 16 tháng 6, 1944 (có thể do bắn nhầm)
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu tàu ngầm lớp Junsen 2
Trọng tải choán nước
  • 2.243 tấn Anh (2.279 t) (nổi)[1]
  • 3.061 tấn Anh (3.110 t) (lặn)[1]
Chiều dài 98,50 m (323 ft 2 in)[1]
Sườn ngang 9,06 m (29 ft 9 in)[1]
Chiều cao 7,58 m (24 ft 10 in)[1]
Mớn nước 5,31 m (17 ft 5 in)[1]
Công suất lắp đặt
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 20.000 nmi (37.000 km) ở tốc độ 10 kn (19 km/h; 12 mph) (nổi) [1]
  • 65 nmi (120 km) ở tốc độ 3 kn (5,6 km/h; 3,5 mph) (ngầm)
Tầm hoạt động 580 tấn nhiên liệu
Độ sâu thử nghiệm 80 m (260 ft)[1]
Số tàu con và máy bay mang được 1 x xuồng đổ bộ Daihatsu 46 ft (14 m) (bổ sung năm 1942)
Thủy thủ đoàn tối đa 80 sĩ quan và thủy thủ[1]
Vũ khí
Máy bay mang theo 1 × thủy phi cơ Yokosuka E6Y (tháo dỡ năm 1940)
Hệ thống phóng máy bay
  • 1 × hầm chứa máy bay
  • 1 × máy phóng; (tháo dỡ năm 1940)

I-6 là một tàu ngầm tuần dương, là chiếc duy nhất thuộc phân lớp Junsen 2 (巡潜二型?) của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và có khả năng mang máy bay. Nhập biên chế năm 1935, I-6 đã hoạt động trong các cuộc Chiến tranh Trung-NhậtChiến tranh Thế giới thứ hai, hỗ trợ cho cuộc tấn công Trân Châu Cảng, gây hư hại cho tàu sân bay USS Saratoga (CV-3), càn quét tàu bè tại Ấn Độ Dương, và tham gia các chiến dịch quần đảo AleutNew Guinea. Nó bị đánh chìm gần đảo Saipan vào ngày 16 tháng 6, 1944, có thể do hỏa lực bắn nhầm từ một tàu chở hàng Nhật Bản.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế[sửa | sửa mã nguồn]

Tiếp nối sau phân lớp Junsen I bao gồm bốn chiếc, I-5 được thiết kế như lớp Junsen I Cải tiến có khả năng vận hành một thủy phi cơ trinh sát. I-6 phản ảnh bước phát triển tiếp theo của một tàu ngầm sân bay, khi được trang bị ngay từ đầu một hầm chứa cùng một máy phóng máy bay. Lớp Junsen III tiếp nối sau đó, bao gồm I-7I-8, cũng có các tính năng tương tự.

Junsen II có trọng lượng choán nước 2.279 tấn (2.243 tấn Anh) khi nổi và 3.110 tấn (3.061 tấn Anh) khi lặn,[1] lườn tàu có chiều dài 98,5 m (323 ft 2 in), mạn tàu rộng 9,06 m (29 ft 9 in) và mớn nước sâu 5,31 m (17 ft 5 in).[1] Con tàu có thể lặn sâu 80 m (262 ft)[1] và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 80 sĩ quan và thủy thủ.[1]

Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 7 công suất 8.000 mã lực phanh (5.966 kW),[1] mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện 1.300 mã lực (969 kW).[1] Con tàu có thể đạt tốc độ tối đa 20 hải lý trên giờ (37 km/h; 23 mph) khi nổi và 7,5 hải lý trên giờ (13,9 km/h; 8,6 mph) khi lặn.[1] Khi Junsen II di chuyển trên mặt nước nó đạt tầm xa hoạt động 20.000 hải lý (37.000 km; 23.000 mi) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph),[1] và có thể lặn xa 65 nmi (120 km; 75 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).

Lớp Junsen II có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), gồm bốn ống bố trí trước mũi và hai ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 17 quả ngư lôi Kiểu 89.[1] Vũ khí trên boong tàu bao gồm một khẩu hải pháo 12,7 cm (5 in) cùng một súng máy phòng không 13,2 mm (0,52 in) trên cầu tàu.[1] Nó có thể vận hành một thủy phi cơ trinh sát Yokosuka E6Y chứa trong hầm chứa và phóng bằng máy phóng phía sau cầu tàu.[1]

Chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

I-6 được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Kawasaki tại Kobe vào ngày 4 tháng 10, 1932.[3][4] Nó được hạ thủy vào ngày 31 tháng 3, 1934,[3][4] rồi hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 15 tháng 5, 1935.[3][4]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

1935 - 1937[sửa | sửa mã nguồn]

Vào lúc nhập biên chế, I-6 được phân về Quân khu Hải quân Yokosuka.[3][4] Nó gia nhập Đội tàu ngầm 8 vào ngày 1 tháng 6, 1935, thuộc Hải đội Tàu ngầm 1 trực thuộc Đệ Nhất hạm đội, trong thành phần Hạm đội Liên hợp.[3] Đang khi tham gia một đợt cơ động tại vịnh Ise vào ngày 1 tháng 8, 1935, nó mắc tai nạn va chạm với tàu khu trục Akatsuki[4] lúc 14 giờ 27 phút, và bị hư hại kính tiềm vọng. Chiếc tàu ngầm phải quay trở về Yokosuka để sửa chữa.[4] I-6 được phối thuộc trực tiếp cùng Quân khu Hải quân Yokosuka từ ngày 15 tháng 11, 1935,[3] rồi đến tháng 7, 1936 được trang bị một thủy phi cơ trinh sát Watanabe E9W cho mục đích thử nghiệm.[4]

Đến ngày 1 tháng 12, 1936, I-6 được điều trở lại Đội tàu ngầm 8 thuộc Hải đội Tàu ngầm 1, trực thuộc Đệ Nhất hạm đội.[3] Vào ngày 27 tháng 3, 1937, I-6 rời Sasebo để cùng các chiếc I-1, I-2, I-3, I-4I-5 hoạt động huấn luyện tại khu vực Thanh Đảo, Trung Quốc.[3][5][6][7][8][9] Chúng kết thúc đợt huấn luyện khi về đến vịnh Ariake vào ngày 6 tháng 4, 1937.[3][5][6][7][8][9]

Chiến tranh Trung-Nhật[sửa | sửa mã nguồn]

Chiến tranh Trung-Nhật bùng nổ sau khi xảy ra sự kiện Lư Câu Kiều (cầu Marco Polo) vào ngày 7 tháng 7, 1937.[4] Đến tháng 9, 1937, Hải đội Tàu ngầm 1 được điều sang Đệ Tam hạm đội[10] và phối thuộc cùng Hạm đội khu vực Trung Quốc để hoạt động tại vùng biển Trung Quốc.[10] Hải đội, bao gồm các tàu I-1, I-2, I-3, I-4, I-5I-6,[10] đã được phái đến căn cứ tại Hong Kong cùng với các tàu tiếp liệu tàu ngầm ChōgeiTaigei vào tháng 9, 1937.[10] Từ căn cứ này, các tàu ngầm tham gia phong tỏa Trung Quốc và tuần tra dọc bờ biển phía Đông và phía Nam Trung Quốc.[10]

Từ ngày 20[3] hoặc 21 tháng 8[4] đến ngày 23 tháng 8, 1937, cả sáu chiếc tàu ngầm thuộc Hải đội Tàu ngầm 1 đã hoạt động trong biển Hoa Đông như lực lượng bảo vệ từ xa cho các thiết giáp hạm Nagato, Mutsu, HarunaKirishima cùng tàu tuần dương hạng nhẹ Isuzu làm nhiệm vụ vận chuyển binh lính từ Tadotsu, Shikoku đến Thượng Hải, Trung Quốc.[4] Hải đội Tàu ngầm 1 đặt căn cứ tại Hong Kong cho đến mùa Thu năm 1938.[10] Trong một nỗ lực nhằm giảm căng thẳng trong quan hệ quốc tế do cuộc xung đột với Trung Quốc, Nhật Bản cho rút lực lượng tàu ngầm của họ khỏi vùng biển Trung Quốc từ tháng 12, 1938.[10]

1938 – 1941[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z “Type J2”. combinedfleet.com. 2016. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  2. ^ Campbell (1985), tr. 191.
  3. ^ a b c d e f g h i j “I-6”. ijnsubsite.com. 18 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  4. ^ a b c d e f g h i j Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2012). “IJN Submarine I-6: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  5. ^ a b “I-1(1) ex No-74”. ijnsubsite.com. 1 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  6. ^ a b “I-2 Ex No-75”. ijnsubsite.com. 15 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  7. ^ a b “I-3 ex No-76”. ijnsubsite.com. 3 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  8. ^ a b “I-4 ex No-61”. ijnsubsite.com. 18 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  9. ^ a b “I-5”. ijnsubsite.com. 18 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2024.
  10. ^ a b c d e f g Boyd & Yoshida (1995), tr. 54.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]