Bước tới nội dung

Chromis xanthura

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chromis xanthura
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Họ (familia)Pomacentridae
Nhánh Ovalentaria
Chi (genus)Chromis
Loài (species)C. xanthura
Danh pháp hai phần
Chromis xanthura
(Bleeker, 1854)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Heliases xanthurus Bleeker, 1854

Chromis xanthura là một loài cá biển thuộc chi Chromis trong họ Cá thia. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1854.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh xanthura được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: xanthós (ξανθός; "có màu vàng") và ourā́ (οὐρά; "đuôi"), hàm ý đề cập đến màu vàng trên hai thùy đuôi của cá con ở loài này.[1]

Phạm vi phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

Từ Réunion, Maldives, đảo Giáng Sinhquần đảo Cocos (Keeling), C. xanthura được phân bố trải rộng về phía đông tới quần đảo Pitcairn, ngược lên phía bắc đến Nhật Bảnđảo Đài Loan, xa về phía nam đến các bang Tây ÚcQueensland (Úc), Nouvelle-CalédonieTonga.[2][3]

Nhiều cá thể đuôi đen trước đây được cho là biến dị kiểu hình của C. xanthura ở phía nam Nhật Bản và một số đảo quốc thuộc châu Đại Dương đã được công nhận là một loài hợp lệ dựa trên cơ sở phân tích hình tháiphân tử, là Chromis anadema.[4]Việt Nam, loài cá này được ghi nhận tại cù lao Chàm (Quảng Nam);[5] dọc theo vùng duyên hải Nam Trung Bộ,[6] bao gồm cả quần đảo Hoàng Saquần đảo Trường Sa.[7]

C. xanthura sống tập trung trên đới mào rạn và sườn dốc của các rạn viền bờ ở độ sâu khoảng từ 3 đến 40 m.[2]

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

C. xanthura có chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận là 17 cm.[2] Cơ thể có màu xám, ngoại trừ vây và cuống đuôi có màu trắng. Vảy viền đen sẫm. Nắp mang có viền đen ở rìa sau, một sọc tương tự ở rìa sau của xương trước nắp mang. Gốc vây ngực có một đốm đen. Cá con có màu vàng trên thùy đuôi và phía sau của vây lưng và vây hậu môn.[8][9][10]

Số gai ở vây lưng: 13; Số tia vây ở vây lưng: 10–11; Số gai ở vây hậu môn: 2; Số tia vây ở vây hậu môn: 9–10; Số tia vây ở vây ngực: 18–20; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số vảy đường bên: 16–19; Số lược mang: 26–30.[8]

Sinh thái học[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của C. xanthurađộng vật phù du, đôi khi chúng hợp thành đàn lớn và cùng nhau kiếm ăn. Cá đực có tập tính bảo vệ và chăm sóc trứng; trứng có độ dính và bám vào nền tổ.[2]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Scharpf, Christopher; Lazara, Kenneth J. (2021). “Series Ovalentaria (Incertae sedis): Family Pomacentridae”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2022.[liên kết hỏng]
  2. ^ a b c d Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Chromis xanthura trên FishBase. Phiên bản tháng 2 năm 2024.
  3. ^ R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). Chromis xanthura. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2022.
  4. ^ Motomura, Hiroyuki; Nishiyama, Hajime; Chiba, Satoru (2017). “Review of the Chromis xanthura species group (Perciformes: Pomacentridae), with description of a new species”. Ichthyological Research. 65: 177–191. doi:10.1007/s10228-017-0601-8.
  5. ^ Nguyễn Văn Long; Mai Xuân Đạt (2020). “Đặc trưng nguồn lợi cá trong các hệ sinh thái ở khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm - Hội An” (PDF). Vietnam Journal of Marine Science and Technology. 20 (1): 105–120. doi:10.15625/1859-3097/13553. ISSN 1859-3097.
  6. ^ Nguyễn Văn Long (2009). “Cá rạn san hô ở vùng biển ven bờ Nam Trung Bộ”. Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển T9. 3: 38–66.
  7. ^ Capuli, Estelita Emily; Jansalin, Jeremiah Glenn (biên tập). Chromis xanthura (Bleeker, 1854)”. FishBase. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2022.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
  8. ^ a b John E. Randall; Gerald R. Allen; Roger C. Steene (1998). The Fishes of the Great Barrier Reef and Coral Sea. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. tr. 262. ISBN 978-0824818951.
  9. ^ Chromis xanthura Pomacentridae”. Reef Life Survey. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2022.
  10. ^ Bray, D. J. (2022). “Pale-tail Puller, Chromis xanthura (Bleeker 1854)”. Fishes of Australia. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2022.