Án lệ 40/2021/AL

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Án lệ 40/2021/AL
Tòa ánHội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội
Tên đầy đủÁn lệ số 40/2021/AL về công nhận việc chuyển đổi quyền sử dụng đất trên thực tế
Tranh tụng16 tháng 9 năm 2016
Phán quyết28 tháng 6 năm 2019
Trích dẫnQuyết định giám đốc thẩm số 37/2019/DS-GĐT;
Quyết định công bố án lệ 594/QĐ-CA
Lịch sử vụ việc
Trước đóSơ thẩm: Nguyên đơn thắng kiện, chia tài sản thừa kế vùng tranh chấp cho những người con trong gia đình, cả nguyên đơn lẫn bị đơn.
Phúc thẩm: bác kháng cáo, giữ nguyên sơ thẩm.
Tiếp theoChánh án Tối án nhân dân cấp cao kháng nghị, Ủy ban Thẩm phán cấp cao giám đốc thẩm
Kết luận cuối cùng
Hủy bản án phúc thẩm, sơ thẩm. Khẳng định thực tế rằng các bên chuyển đổi quyền sử dụng đất trên thực tế, không có thỏa thuận bằng văn bản, nhưng đã sử dụng đất ổn định, lâu dài, không có tranh chấp, đã đăng ký, kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất nhận chuyển đổi. Do đó, phải công nhận việc chuyển đổi quyền sử dụng đất trên thực tế; các bên có quyền sử dụng đất đối với diện tích đất đã chuyển đổi. Lật ngược bản án, bị đơn thắng kiện. Giao vụ án lại cho Tòa án nhân dân thị xã Bỉm Sơn xét xử sơ thẩm lại theo nhận định trên.

Án lệ 40/2021/AL về công nhận việc chuyển đổi quyền sử dụng đất trên thực tế là án lệ công bố thứ 40 thuộc lĩnh vực dân sự của Tòa án nhân dân tối cao tại Việt Nam, được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua, Chánh án Tối cao Nguyễn Hòa Bình ra quyết định công bố ngày 12 tháng 3,[1] và có hiệu lực cho tòa án các cấp trong cả nước nghiên cứu, áp dụng trong xét xử từ ngày 15 tháng 4 năm 2021.[2] Án lệ 40 dựa trên nguồn là Quyết định giám đốc thẩm số 37 ngày 28 tháng 6 năm 2019 của Ủy ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về vụ án dân sự tranh chấp thừa kế tài sản tại tỉnh Thanh Hóa,[3] nội dụng xoay quanh quyền sử dụng đất trên thực tế; sử dụng đất ổn định, lâu dài; cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; và công nhận việc chuyển đổi quyền sử dụng đất trên thực tế. Án lệ này do Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học Tòa án nhân dân tối cao đề xuất.[4]

Trong vụ việc này, nguyên đơn là anh chị em ruột khởi kiện bị đơn là vợ chồng người anh cùng cha khác mẹ về việc tranh chấp phân chia di sản thừa kế, tài sản về quyền sử dụng đất địa phương. Mâu thuẫn nảy sinh về đối lập quan điểm, nguyên đơn cho rằng mảnh đất mà bị đơn đứng tên trong giấy tờ là tài sản chung của bố mẹ tạo ra, di sản để lại; trong khi bị đơn cho rằng đó là tài sản riêng của vợ chồng họ. Vụ án được chọn làm nguồn án lệ để xem xét và đưa ra nhận định xác lập việc chuyển đổi quyền sử dụng đất trên thực tế trong lịch sử lâu dài của địa phương.

Tóm lược vụ án[sửa | sửa mã nguồn]

Tỉnh Thanh Hóa có một gia đình gồm: vợ chồng Lê Văn U (gọi tắt: cụ U), Nguyễn Thị K (gọi tắt: cụ K); ba người con chung là Lê Văn C1 (gọi tắt: ông C1), Lê Văn C2 (gọi tắt: ông C2), Lê Thị M (gọi tắt: bà M); ba người con riêng của cụ U là Lê Quang T1 (gọi tắt: ông T1), Lê Văn D1 (gọi tắt: ông D1), Lê Quang D2 (gọi tắt: ông D2). Vợ chồng cụ U, cụ K tới xã Quang Trung, thị xã Bỉm Sơn, để lập nghiệp, sinh sống của ba người con chung và một con riêng là ông D2.[Ghi chú 1] Sau đó, vợ chồng người con riêng là ông D1 và vợ là Nguyễn Thị T2 (gọi tắt: bà T2) cũng tới sinh sống ở đây. Trong những năm sau chiến tranh, chính quyền địa phương thực hiện việc cấp đất cho các hộ gia đình vùng quê, trong đó có gia đình cụ U, cụ K và người con riêng ông D1, bà T2.

Nhiều năm sau, cụ U, cụ K dần dần qua đời mà không để lại di chúc. Trong nội bộ gia đình có tổ chức các buổi họp để thỏa thuận về việc phân chia di sản thừa kế, tài sản chung, nhưng không thể thống nhất, dẫn đến xung đột tài sản. Vấn đề chủ yếu xoay quanh một mảnh đất rộng lớn được đứng tên quyền sử dụng với hộ gia đình ông D1, bà T2, đã từng được cả nhà sử dụng trong quá khứ, ở cả đất thổ cư, đất nông nghiệp. Từ đây, do không thể thương lượng, ngày 18 tháng 2 năm 2014, nguyên đơn là ba người con chung Lê Văn C1, Lê Văn C2 và Lê Thị M đệ đơn khởi kiện bị đơn là vợ chồng con riêng, tức ông D1, bà T2. Tòa án nhân dân thị xã Bỉm Sơn đã thụ lý vụ án và xét xử. Lần lượt sơ thẩm ở thị xã, phúc thẩm ở Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa rồi kháng nghị, giám đốc thẩm tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, vụ án mới được nhận định và quay trở lại sơ thẩm.

Xét xử các giai đoạn[sửa | sửa mã nguồn]

Trình bày của các bên[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyên đơn[sửa | sửa mã nguồn]

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn trình bày rằng: khi cụ Lê Văn U kết hôn với cụ Nguyễn Thị K, cụ U đã có ba con riêng (với người vợ đã chết) là ông T1, ông D1 và ông D2. Sau đó, cụ U và cụ K có ba con chung là ba người nguyên đơn, tức ông C1, ông C2 và bà M. Năm 1963, cụ U và cụ K rời xã Quang Lộc, huyện Hậu Lộc đi khai hoang vùng kinh tế mới tại làng L,[Ghi chú 2] có mang theo bốn người con là ông D2, ông C1, ông C2 và bà M. Khi đi, hai cụ dỡ căn nhà bếp mang theo và để lại ngôi nhà năm gian tại xã Quang Lộc cho ông T1 và ông D1 sở hữu. Hai cụ khai hoang tạo lập được thửa đất số 986 tại Thôn 5, xã xã Quang Trung và xây dựng năm gian nhà để sinh sống.

Trong gia đình, ông D2 đi bộ đội, hy sinh năm 1972, chưa có vợ con. Ông C1 và ông C2 nhập ngũ. Năm 1989, ông C1 về phục viên và năm 1992, ông C2 về phục viên. Ông T1 kết hôn với bà Lê Thị C3, ông D1 kết hôn với bà Nguyễn Thị T2. Trong thời gian chung sống tại xã Quang Lộc, bà C3 và bà T2 có mâu thuẫn nên năm 1983, bà T2 ra thị xã Bỉm Sơn xin ở với cụ U, cụ K và bà M. Năm 1997, cụ U chết không có di chúc. Ngày 14 tháng 10 năm 2003, cụ K nhận thấy anh em trong gia đình có sự mâu thuẫn về đất đai nên gọi ông C1, ông C2, bà M, ông T1 và ông D1 về họp gia đình với mục đích chia thừa kế đối với thửa đất số 986. Cuộc họp đã được chính ông D1 ghi biên bản với mục đích chia quyền sử dụng đất. Tại cuộc họp tất cả đều công nhận đất là của hai cụ tạo lập, để lại và đã xác định ranh giới, nhưng không thống nhất được cách chia, cụ thể cụ K, ông C1, ông C2 và bà M không đồng ý nhận 10 m mặt đường theo ý kiến của ông D1.

Năm 2006, cụ K chết không để lại di chúc, anh em trong nhà có bàn bạc chia thừa kế tài sản của bố mẹ để lại, nhưng không thống nhất được, nên ông C1, ông C2 và bà M, tức nguyên đơn đã nhờ chính quyền thôn hòa giải vào ngày 22 tháng 8 năm 2008. Ngày 10 tháng 10 năm 2010, ông D1 thừa nhận ra ở tại khu đất đang tranh chấp từ năm 1984 đến nay. Ông C1, ông C2 và bà M khởi kiện yêu cầu Tòa án, đề nghị: hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất[5] đứng tên hộ gia đình bà T2 tại Thôn 5, xã Quang Trung; để lại 116 m² đất thửa số 986 làm nhà thờ hai cụ, phần còn lại chia thừa kế cho các ông bà. Đối với các công trình trên đất và gần 20 m mặt đường ông D1 đã bán khi hai cụ còn sống, các nguyên đơn không yêu cầu đòi lại và không yêu cầu chia thừa kế.[6]

Bị đơn[sửa | sửa mã nguồn]

Bị đơn là ông D1, bà T2 trình bày rằng: thửa đất các nguyên đơn yêu cầu chia thừa kế không phải là đất của bố mẹ để lại. Đất này là vợ chồng ông D1, bà T2 đã dùng 2.112 m² đất thửa số 288 của tờ bản đồ 299 trong bản đồ địa chính xã Quang Trung, là đất ông bà được xã cấp năm 1982 để đổi cho cụ U và cụ K lấy thửa số 986 (là thửa số 40 theo bản đồ năm 1997), đã là đất đổi thửa thì không còn là đất của hai cụ và hiện nay vợ chồng ông đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đề nghị cấp có thẩm quyền thu hồi thửa đất số 288, chủ sử dụng đất là hai cụ. Thửa đất này ông C1 đã tự chuyển nhượng cho anh Trịnh Văn T3 là bất hợp pháp, vì không có sự bàn bạc của các thành viên trong gia đình trong đó có ông D1.[7] Thửa đất số 288 hai cụ đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng vào năm 1994 mới là đất hai cụ để lại để chia thừa kế. Các biên bản hòa giải nguyên đơn nộp kèm đơn khởi kiện là không khách quan, không đúng pháp luật, vì gia đình ông bà đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ năm 1994 đến nay đã hơn 20 năm.[8] Trước khi gia đình ông bà được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không ai có tranh chấp

Sơ thẩm[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 27 tháng 5 năm 2016, tại số 81 đường Trần Phú, Khu phố 3, phường Lam Sơn, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hoá, phiên xét xử sơ thẩm ra quyết định đã diễn ra. Tòa án nhân dân thị xã Bỉm Sơn ra quyết định:[9] hủy một phần quyết định của Ủy ban nhân dân thị xã Bỉm Sơn về phần giao ruộng đất ổn định lâu dài và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ Nguyễn Thị T2. Ủy ban nhân dân thị xã Bỉm Sơn có nghĩa vụ thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên hộ Nguyễn Thị T2 để làm thủ tục cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng quy định của pháp luật. Chia cho nguyên đơn được hưởng di sản thừa kế của Nguyễn Thị K gồm: 538 m² đất tại Thôn 5, xã Quang Trung, thị xã Bỉm Sơn. Cụ thể mỗi người được chia quyền sử dụng 179,33 m² đất có trị giá 137,708 triệu đồng. Tạm giao phần di sản của Lê Văn U gồm ½ thửa đất số 986 có diện tích 538 m² cho ông D1 tiếp tục quản lý sử dụng cho đến khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn có quyết định khác, án phí và quyền kháng cáo.[10]

Phúc thẩm và kháng nghị[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 8 tháng 6 năm 2016, bị đơn là ông D1 và bà T2 kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Ngày 16 tháng 9 năm 2016, tại số 2 đường Hạc Thành, phường Điện Biên, thành phố Thanh Hóa, phiên phúc thẩm diễn ra, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã quyết định:[11] không chấp nhận kháng cáo của bị đơn; giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thị xã Bỉm Sơn.

Ngày 30 tháng 12 năm 2016, Công ty Luật trách nhiệm hữu hạn N (là người bảo vệ quyền lợi cho ông D1) và ông D1, bà T2 có đơn đề nghị xem xét lại bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm. Ngày 14 tháng 2 năm 2019, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã ra quyết định kháng nghị đề nghị Ủy ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử giám đốc thẩm theo hướng huỷ bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.[12]

Giám đốc thẩm[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 28 tháng 6 năm 2019, với yêu cầu kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội và sự nhất trí của Viện Kiểm sát, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao đã mở phiên xét xử giám đốc thẩm tại trụ sở tòa ở ngõ 1, phố Phạm Văn Bạch, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội chấp nhận kháng nghị của Chánh án.

Nhận định của tòa án[sửa | sửa mã nguồn]

Trong phiên giám đốc thẩm, Hội đồng xét xử có nhận định rằng: vợ chồng cụ Lê Văn U và cụ Nguyễn Thị K có ba con chung là ba người nguyên đơn, tức ông C1, ông C2 và bà M. Cụ U còn có ba con riêng là ông anh em ông T1, ông D1 và ông D2 (đã hy sinh năm 1972 khi chưa có vợ con). Năm 1997, cụ U chết và năm 2006, cụ K chết đều không để lại di chúc. Năm 2014, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1994 đứng tên hộ bà T2 tại Thôn 5, xã Quang Trung, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa; chia thừa kế thửa đất số 986, tờ bản đồ số 1, bản đồ địa chính do ông D1 và bà T2 đang quản lý sử dụng.

Lời khai các bên[sửa | sửa mã nguồn]

Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự thống nhất khai nguồn gốc đất đang tranh chấp là do cụ U và cụ K khai phá được khi đi khai hoang. Bị đơn khai năm 1982, vợ chồng từ huyện Hậu Lộc ra thị xã Bỉm Sơn sống cùng với cụ U, cụ K và bà M ở thửa đất trên; năm 1984, vợ chồng ông được Ủy ban nhân dân xã cấp cho một thửa đất tại khu xăng dầu (tại Chỏm Vang) và vợ chồng ông đã đổi đất được cấp cho cụ U, cụ K để lấy thửa đất số 986 (theo bản đồ địa chính năm 1997 là thửa đất số 40) và vợ chồng ông đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên đất đang tranh chấp không phải là di sản của cụ U và cụ K để lại nữa, mà là tài sản riêng của bị đơn. Bà M và ông C1 thống nhất khai năm 1984 (khi đó ông C1 và ông C2 vẫn đang phục vụ trong quân đội, vợ ông C1 dạy học ở địa phương khác nên không thể đứng tên xin đất), theo đề nghị của cụ U, bà M đứng tên ông D1 làm đơn xin cấp đất nhằm mục đích cho ông C1 và được Ủy ban nhân dân xã cấp cho một thửa đất tại Chỏm Vang, nhưng vì ông D1, bà T2 không chịu ra đất mới được cấp ở, để tránh mâu thuẫn trong gia đình, ông C1 đã làm nhà tại đất mới được cấp rồi đưa cụ U, cụ K và bà M ra đó ở; do đó, mặc dù đất mới được cấp đứng tên hộ cụ U nhưng là của ông C1.[13]

Tài liệu cung cấp[sửa | sửa mã nguồn]

Như vậy, với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cho thấy việc giao đất cho các hộ nông dân của xã là thực hiện theo chính sách của Nhà nước và được lập hồ sơ công khai.[14] Khi Ủy ban nhân dân xã và Ủy ban nhân dân thị xã thực hiện chính sách giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 716 hộ nông dân của xã, trong đó có hộ cụ U và hộ bà T2, cụ U và cụ K đều còn sống nhưng không có đơn, không kê khai đối với thửa đất đang tranh chấp, hai cụ chỉ kê khai đối với thửa đất số 325 (theo ông D1, bà T2 khai là thửa đất đổi cho hai cụ) và hai cụ đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất này, hộ bà T2 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa số 986a (là thửa 986 đang tranh chấp). Mặt khác, sau khi hộ bà T2 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất đang tranh chấp không có ai khiếu nại; chỉ đến năm 2008, khi cụ U, cụ K đã chết mới xảy ra tranh chấp giữa các con của hai cụ. Do đó, có căn cứ xác định cụ U và cụ K đã đổi đất cho bà T2, ông D1.

Nhận định của Hội đồng xét xử theo Quyết định giám đốc thẩm số 37/2019/DS-GĐT.

Tại công văn của Uỷ ban nhân dân thị xã Bỉm Sơn có nội dung:[15] theo bản đồ 299 duyệt công nhận năm 1985, vị trí đất đang tranh chấp thuộc thửa số 986 diện tích 1.616 m² đất "T" không ghi chủ sử dụng đất; theo bản đồ đo vẽ công nhận tháng 12 năm 1997, đất đang tranh chấp thuộc thửa số 40, tờ bản đồ số 17 diện tích 1.263 m², sổ mục kê ghi đất ở 200 m² và đất vườn 1.063 m² và chủ sử dụng đất là ông D1; theo bản đồ địa chính xã đo vẽ duyệt công nhận tháng 12 năm 2011, vị trí đất đang tranh chấp thuộc thửa số 262, tờ bản đồ số 56 diện tích nguyên thửa 1.571 m², mục kê ghi đất ở 120 m², đất trồng cây lâu năm khác 1.451,4 m² và chủ sử dụng đất đứng tên ông D1. Căn cứ quyết định của Tổng cục Quản lý ruộng đất ban hành quy định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,[16] và quyết định quy định giao đất ruộng đất ổn định lâu dài cho hộ nông dân của Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa;[17] tờ trình của Ủy ban nhân dân xã,[18] và phương án kèm theo việc phê duyệt cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Ủy ban nhân dân thị xã Bỉm Sơn đã ban hành quyết định giao ruộng đất ổn định lâu dài và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 716 hộ nông dân thuộc hợp tác xã, trong đó có hộ bà T2;[19] hộ bà T2 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 23 tháng 9 năm 1994, tổng diện tích đất được sử dụng 3.409 m², bao gồm 200 m² đất thổ cư, 786 m² đất thổ canh thửa số 986a, còn lại là đất sản xuất nông nghiệp.

Theo tờ trình của Ủy ban nhân dân xã cho thấy: Ủy ban nhân dân xã Quang Trung trình Chủ tịch Ủy ban nhân thị xã Bỉm Sơn phê duyệt về việc giao đất ổn định lâu dài và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 716 hộ nông dân trên địa bàn xã đã được tổ chức công khai hồ sơ và có đơn đăng ký sử dụng đất. Ủy ban nhân dân thị xã Bỉm Sơn đã quyết định phê duyệt đề nghị của cấp xã. Theo quyết định trên, hộ bà T2 được giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cùng ngày; hộ cụ U được giao tổng cộng 1.776 m² đất, trong đó có 200 m² đất thổ cư, 556 m² đất thổ canh đều thuộc thửa số 325 (theo các đương sự khai chính là thửa số 288), còn lại là đất lúa ở các thửa khác nhau.

Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng theo bản đồ 299 năm 1985, cụ K, cụ U là người sử dụng đất đang tranh chấp, nên đất đang tranh chấp là di sản của cụ U, cụ K và đã chia thừa kế đất của cụ K là không đúng. Sau khi xét xử sơ thẩm, vợ chồng bị đơn đã kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm xác định thửa đất số 325 đứng tên hộ cụ U là tài sản riêng của vợ chồng ông C1, còn thửa đất số 986 đứng tên hộ bà T2 mới là di sản của cụ U, cụ K để lại nên đã không chấp nhận kháng cáo của bị đơn và giữ nguyên các quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là sai lầm nghiêm trọng gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn. Về tố tụng: khi giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm không đưa ông T1 và hai con của bị đơn tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là thiếu sót.[20]

Quyết định[sửa | sửa mã nguồn]

Từ những nhận định này, Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội phán quyết quyết định: chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội;[21][22][23] hủy bản án dân sự phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa và hủy bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa đối với vụ án tranh chấp thừa kế tài sản giữa nguyên đơn là ông Lê Văn C1, ông Lê Văn C2 và bà Lê Thị M với bị đơn là ông Lê Văn D1, bà Nguyễn Thị T2 và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác;[24] Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.[25]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Trong các án lệ Việt Nam, có những án lệ bao gồm thông tin, nội dung công bố bản án không thống kê chi tiết tên của các đương sự, chỉ viết tắt nhằm đảm bảo các vấn đề về bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân.
  2. ^ Nay thuộc Thôn 5, xã Quang Trung, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Chánh án Tối cao Nguyễn Hòa Bình, Quyết định 42/2021/QĐ-CA về việc công bố án lệ năm 2021.
  2. ^ Chánh án Tối cao Nguyễn Hòa Bình, Quyết định 42/2021/QĐ-CA về việc công bố án lệ năm 2021; Điều 2 Quyết định về thời điểm áp dụng xét xử.
  3. ^ Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, Quyết định giám đốc thẩm số 37/2019/DS-GĐT-GĐT ngày 28 tháng 6 năm 2019.
  4. ^ Án lệ 40/2021/AL 2021, tr. 1.
  5. ^ Ủy ban nhân dân thị xã Bỉm Sơn, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C364176, xã Quang Trung.
  6. ^ Án lệ 40/2021/AL 2021, tr. 2.
  7. ^ Luật Đất đai 1993, Khoản 2 Điều 3.
  8. ^ Bút lục vụ án, Ủy ban nhân dân thị xã Bỉm Sơn, Quyết định số 71QĐ/UBBS ngày 23 tháng 9 năm 1994 cấp đất hộ gia đình Nguyễn Thị T2.
  9. ^ Tòa án nhân dân thị xã Bỉm Sơn, Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2016/DSST ngày 27 tháng 5 năm 2016.
  10. ^ Án lệ 40/2021/AL 2021, tr. 3.
  11. ^ Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Bản án dân sự phúc thẩm số 85/2016/DSPT ngày 16 tháng 9 năm 2016.
  12. ^ Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, Quyết định kháng nghị số 06/2019/KN-DS ngày 14 tháng 2 năm 2019.
  13. ^ Án lệ 40/2021/AL 2021, tr. 4.
  14. ^ Bộ luật Dân sự 2015, Khoản 2 Điều 221: Căn cứ xác lập quyền sở hữu.
  15. ^ Bút lục vụ án, Uỷ ban nhân dân thị xã Bỉm Sơn: Công văn số 910/UBND-TNMT ngày 28 tháng 7 năm 2014.
  16. ^ Bút lục vụ án, Tổng cục Quản lý ruộng đất, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Quyết định số 201QĐ/ĐKTK ngày 14 tháng 7 năm 1989.
  17. ^ Bút lục vụ án, Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa: Quyết định số 117/NN/UBTH ngày 21 tháng 1 năm 1993.
  18. ^ Bút lục vụ án, Ủy ban nhân dân xã Quang Trung, Bỉm Sơn, Thanh Hóa: Tờ trình số 73/TT/UB ngày 20 tháng 8 năm 1994.
  19. ^ Bút lục vụ án, Ủy ban nhân dân thị xã Bỉm Sơn: Quyết định số 71/QĐ/UBBS ngày 23 tháng 9 năm 1994.
  20. ^ Án lệ 40/2021/AL 2021, tr. 5.
  21. ^ Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Khoản 1 Điều 337: Thẩm quyền giám đốc thẩm.
  22. ^ Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Điều 342: Phạm vi giám đốc thẩm.
  23. ^ Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Khoản 3 Điều 343: Thẩm quyền của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm.
  24. ^ Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Điều 345: Hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm hoặc xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.
  25. ^ Án lệ 40/2021/AL 2021, tr. 6.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (2021). Án lệ số 40/2021/AL về công nhận việc chuyển đổi quyền sử dụng đất trên thực tế. Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam.
  • Quốc hội Việt Nam khóa XIII (2015). “Bộ luật Dân sự”. Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản quy phạm pháp luật.
  • Quốc hội Việt Nam khóa XI (2005). “Bộ luật Dân sự”. Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản quy phạm pháp luật.
  • Quốc hội Việt Nam khóa XIII (2015). “Bộ luật Tố tụng dân sự”. Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản quy phạm pháp luật.
  • Quốc hội Việt Nam khóa IX (1993). “Luật Đất đai”. Thư viện pháp luật.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]