Chú đại bi

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chú đại bi được khắc trên bia. Đền Phật Đảnh Sơn Triều Thánh Tự ở thị trấn Tam Nghĩa, Đài Loan. Được dựng vào tháng 6 năm 2005.

Chú Đại Bi đề cập đến lời tụng của Thanh Cảnh Quan Âm. Theo kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, bài chú này được Bồ tát Quán Thế Âm đọc trước một cuộc Hội kiến của các Phật, bồ tát, các thần và vương. Cũng như câu Om Mani Padme Hum rất phổ biến ngày nay, Đại Bi chú và Lăng nghiêm chú là chân ngôn phổ biến cùng với bồ tát Quán Thế Âm ở Đông Á, thường được dùng để bảo vệ hoặc để làm thanh tịnh, quả báo phước đức của người trì tụng chú thật không thể nghĩ bàn.

Tên gọi[sửa | sửa mã nguồn]

Chú Đại Bi (tiếng Phạn: महा करुणा धारनी, Mahā Karuṇā Dhāranī) hay Đại Bi Tâm Đà La Ni (Mahā Karuṇā-citta Dhāranī), tên gọi đầy đủ Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bố Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh Đại Bi Thần Chú, còn được gọi là Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Âm Đại Bi Chú (Sahasrabhuja Sahasranetra Avalokiteśvara Mahā Karuṇā Dhāranī), Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, Vô Ngại Đại Bi Đà La Ni, Quảng Đại Viên Mãn Đà La Ni, Mãn Nguyện Đà La Ni, Tùy Tâm Tự Tại Đà La Ni, Cứu Khổ Đà La Ni, Diên Thọ Đà La Ni, Diệt Ác Thú Đà La Ni, Phá Ác Nghiệp Chướng Đà La Ni, Tốc Siêu Thập Địa Đà La Ni, là tên gọi của Thanh Cảnh Quan Âm Đại Bi Chú (tiếng Phạn: नीलकण्ठ धारनी,Nīlakaṇṭha Dhāraṇī) tên gọi khác là Thanh Cảnh Đà La Ni. Tại Bán đảo Triều Tiên thường được gọi là Thần Diệu Chương Cú Đại Đà La Ni (tiếng Triều Tiên: 신묘장구대다라니) là bài chú trong "Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh" ("Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh") của Phật giáo Đại thừa, có 84 câu được soạn bằng tiếng Phạn.

Nguồn gốc[sửa | sửa mã nguồn]

Trong Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh Đức Phật Đà nói với Tôn giả A-nan-đà: "như là thần chú, có nhiều tên gọi khác nhau: tên là Quảng Đại Viên Mãn, tên là Vô Ngại Đại Bi, tên là Cứu Khổ Đà La Ni, tên là Diên Thọ Đà La Ni, Diệt Ác Thú Đà La Ni, Phá Ác Nghiệp Chướng Đà La Ni, Mãn Nguyện Đà La Ni, Tùy Tâm Tự Tại Đà La Ni, Tốc Siêu Thập Địa Đà La Ni".

Tên của chú này thể hiện sức mạnh từ bi vĩ đại của Quán Thế Âm Bồ Tát mong muốn hạnh phúc và lợi ích cho tất cả chúng sinh, không có chướng ngại cho lòng đại bi, và thần chú này không chỉ có thể tiêu trừ mọi tai họa, mà còn tất cả các nghiệp ác; Và nó có thể đáp ứng mọi pháp thiện và thực hiện mong muốn của mọi người; tránh xa mọi nỗi sợ hãi oán hận, đức uy thần nhanh chóng lên đến Cõi Phật. Người ngày nay được đặt tên theo tên viết tắt của "Chú Đại Bi", được đặt tên theo sức mạnh từ bi của Bồ tát Quán Thế Âm đối với tất cả chúng sinh.

Chú này được tuyên thuyết bởi 99 ức hằng hà sa chư Phật đời quá khứ, sau vào lúc tịnh độ của Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai, Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai truyền thụ cho Quan Thế Âm Bồ Tát "Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Đà La Ni", và nói rằng "Thiện Nam Tử, ông nên thọ trì tâm chú này để rộng vì hết thảy chúng sanh trong đời ác vị lai mà làm cho họ an vui và được sự lợi ích lớn". Vào lúc bấy giờ sau khi nghe chú, Quan Thế Âm Bồ Tát đang ở Địa Thứ Nhất, liền siêu vượt đến Địa Thứ Tám. Vì vậy tâm sanh hoan hỷ, liền phát lời thệ nguyện rằng "Vào đời vị lai, nếu con có thể làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh, thì hãy khiến thân con lập tức đầy đủ ngàn tay ngàn mắt", Sau khi phát nguyện xong, trên thân tức khắc đều trọn đủ ngàn tay ngàn mắt. Khắp các quốc độ trong mười phương, đại địa chấn động sáu cách. Chư Phật trong mười phương đều phóng quang minh vô lượng chiếu đến thân chiếu soi vô biên thế giới khắp mười phương.

Tuyên thuyết[sửa | sửa mã nguồn]

Chân ngôn này được trích từ Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh. Trong kinh ngài Quán Thế Âm Bồ Tát bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn, con có chú Đại Bi tâm đà ra ni, nay xin nói ra, vì muốn cho chúng sanh được an vui, được trừ tất cả bệnh, được sống lâu, được giàu có, được diệt tất cả nghiệp ác tội nặng, được xa lìa chướng nạn, được thành tựu tất cả thiện căn, được tiêu tan tất cả sự sợ hãi, được mau đầy đủ tất cả những chỗ mong cầu. Cúi xin Thế Tôn từ bi doãn hứa.", rồi sau đó tuyên nói Chú Đại Bi.[1]

"Bồ tát thuyết chú xong, cõi đất sáu phen biến động, trời mưa hoa báu rơi xuống rải rác, mười phương chư Phật thảy đều vui mừng, thiên ma ngoại đạo sợ dựng lông tóc. Tất cả chúng hội đều được quả chứng."[1]

Nội dung[sửa | sửa mã nguồn]

Phiên bản tiếng Việt của Chú Đại bi như sau:[2]

Na mô đại bi hội thượng Phật Bồ tát

Thiên thủ Thiên nhãn vô ngại Đại bi Tâm Đà la ni

Na mô hát ra đát na đá ra dạ gia. Na mô a rị gia, bà lô yết đế, thước bát ra gia, bồ đề tát đỏa bà gia, ma ha tát đỏa bà gia, ma ha ca lô ni ca gia.

Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tả. Na mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị gia bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà.

Na mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đá sa mế, tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng, tát bà tát đá, na ma bà tát đá, na ma bà già, ma phạt đạt đậu. Đát thiệt tha: Án, a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng cu lô cu lô kiết mông độ lô độ lô, phạt xà gia đế, ma ha phạt xà gia đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra gia, giá ra giá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá gia, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, sa ra sa ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô bồ đề dã, bồ đề dã, bồ đà gia, bồ đà gia, di đế rị gia, na ra cẩn trì, địa rị sắt ni na, ba dạ ma na, sa bà ha. Tất đà dạ, sa bà ha. Ma ha tất đà dạ, sa bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra gia, sa bà ha. Na ra cẩn trì, sa bà ha. Ma ra na ra, sa bà ha. Tất ra tăng a mục khư gia, sa bà ha. Sa bà ma ha a tất đà dạ sa bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ sa bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, sa bà ha. Na ra cẩn trì bàn già ra gia sa bà ha. Ma bà lợi thắng yết ra dạ sa bà ha.

Na mô hát ra đát na đá ra dạ gia. Na mô a rị gia bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ, sa bà ha. Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà gia, sa bà ha.

Các phiên bản[sửa | sửa mã nguồn]

Chú Đại Bi thường dùng chính là Tâm Chú của Đức Thanh Cảnh Quán Tự Tại Bồ Tát (Nìlakantha Avalokite’svara Bodhisatva) chủ yếu do hai ngài Bất Không Kim CươngKim Cương Trí dịch vào khoảng giữa thế kỷ thứ 6. Các bản này được lưu truyền dưới 2 dạng là bản dài với bản ngắn:

1) Bản dài (quảng bản) được ghi nhận qua các bài:

  • Thanh Cảnh Quán Tự Tại Bồ Tát Đà La Ni, Bất Không Kim Cương dịch.
  • Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Nễ La Kiến Tha Đà La Ni, Kim Cương Trí dịch.
  • Quán Tự Tại Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, Chỉ Không dịch.
  • Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni Chú, Kim Cương Trí dịch.

2) Bản ngắn (lược bản) được ghi nhận qua các bài:

  • Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Tự Tại Vương Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Tự Tại Thanh Cảnh Đại Bi Tâm Đà La Ni, Bất Không Kim Cương dịch.
  • Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Đại Bi Tâm Đà La Ni, Bất Không dịch.
  • Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni, Già Phạm Đạt Ma dịch.

Do các bản Chú Văn có nhiều loại phiên dịch nên chương cú cũng dựa theo các Kinh Văn mà có sự khác biệt kể cả số lượng câu và Phạn Ngữ.

Mỗi hình tượng của đức Quán Thế Âm bồ tát lại cầm các pháp bảo như chuông loa, loa ốc, bàng bài, nhành dương liễu và tịnh bình,.v.v... Mỗi pháp bảo ấy tượng trưng cho 42 thủ nhãn ấn pháp của đức Quán Thế Âm nghìn tay nghìn mắt.

Văn bản tiếng Phạn được tái tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Sau đây là phần tái hiện văn bản bằng tiếng Phạn IAST dựa trên các công trình của sử gia Lê Tự Hỷ (Việt Nam)[3]Lokesh Chandra (Ấn Độ)[4] · [5]. Nó được chia thành 18 câu có cấu trúc ngữ pháp, không giống trường hợp của văn bản chuyển ngữ được đọc trong các nghi lễ tôn giáo, được chia thành 84 câu, để tôn trọng nhịp điệu thuận theo quy định của nghi lễ (người ta có thể nhận thấy rằng các thuật ngữ "dhāraī" và " mantra" được sử dụng luân phiên).

  • namaḥ ratnatrayāya / 南 無喝 囉 怛那 哆羅 夜 㖿(一) namo āryā / 南 無 阿 唎㖿(二) valokite śvarāya / 婆 盧 羯 帝 爍鉢 囉 㖿(三) bodhi satva vaya / 菩 提 薩 哆婆 㖿(四) mahā satva vaya / 摩 訶 薩 埵婆 㖿(五) mahā kāruṇikāya / 摩 訶 迦 嚧 昵 迦 㖿(六) oṃ 唵(七) sarvarbhaye / 薩 皤 囉 罰 曳(八) sutnatasya / 數 怛 那 怛 寫(九) namaskṛtva imaṃ āryā / 南 無 悉吉㗚 埵 伊 蒙 阿 唎耶(十) valokite śvara raṃdhava / 婆 嚧 吉 帝 室 佛 楞 馱 驮 婆(十一) namo narakinḍi / 南 無 那 囉 謹 墀(十二) hriḥ maha vatsame / 醯 唎 摩 诃 皤 哆 沙 咩(十三) sarva athadu yobhuṃ / 薩 婆 阿 陀 頭 輸 朋(十四) ajeyaṃ / 阿 遊 孕(十五) sarvasatā nama vastya namabhāga / 薩 婆 菩 哆 那 摩 婆 萨 哆 那 摩 縛 伽(十六) mārvdātuḥ / 摩 罰 特 豆(十七) tadyathā oṃ / 怛 姪 他(十八) 唵 avalohe lokāte / 阿 波 盧 醯 盧 迦 帝(十九) karate / 迦 羅 帝(二十) jihriḥ / 夷 醯唎(二十一) mahā bodhisatva sarva(2) / 摩 訶 菩 提 薩 埵(二十二) 薩 婆 薩 婆(二十三) mala(2) mahemahe ṛdayaṃ / 摩 囉 摩 囉 摩 醯 摩 醯唎 馱 孕(二十四) kuru(2) karmaṃ / 俱 嚧 俱 嚧 羯 懞(二十五) dhuru(2) vjayate / 度 嚧 度 嚧 罰 闍 耶 帝 (二十六) mahā vjayate / 摩 訶 罰 闍 耶 帝(二十七) dhara(2) / 陀 羅 陀 羅(二十八) dhiriṇi / 地 利 尼(二十九) śvarāya / 室 佛 啰 耶(三十) cala cala / 遮 羅 遮 羅(三十一) mama / 摩 摩(弟子某甲受持) vmāra / 罰 摩 羅(三十二) muktele / 穆 帝 曬(三十三) ehe ehe / 伊 醯 移 醯(三十四) śina(2) / 室 那 室 那(三十五) araṣaṃ phraśali / 阿 囉參 佛囉 舍 利(三十六) vsa vsaṃ phraśaya / 罰 沙 罰 參 佛羅 舍 耶(三十七) huru(2) mara / 呼 嚧 呼 嚧 麼 囉(三十八) hulu(2) hrīḥ / 呼 嚧 呼 嚧 醯利 (三十九) sara(2) / 沙 囉 沙 囉(四十) siri(2) suru(2) / 悉 唎 悉 唎(四十一) 蘇 嚧 蘇 嚧(四十二) bodhiya(2) / 菩 提 㖿 菩 提 㖿(四十三) bodhaya(2) / 菩 提 耶 菩 提 耶(四十四) maiteriyā / 彌 帝唎 耶(四十五) narakinḍi / 那 囉 謹 墀(四十六) dhiriṣṇina payāmāna / 地 唎瑟 尼 那 波 夜 摩 那(四十七) svāhā siddhāyā / 娑婆 訶(四十八) 悉 陀 夜(四十九) svāhā mahā siddhāyā svāhā / 娑婆 訶(五十法語) / 摩 訶 悉 陀 夜 娑婆 訶 siddha yoge / 悉 陀 喩 藝(五十二) śvarāya svāhā / 室皤 囉 耶 娑婆 訶(五十三) narakinḍi svāhā māranara / 那 囉 謹 墀(五十五) 娑婆 訶(五十六) 摩 囉 那 囉(五十七) svāhā / 娑婆 訶(五十八) sira siṃ amukhāya / 悉 囉 僧 阿 穆 佉 耶(五十九) svāhā sava maha asiddhāyā / 娑婆 訶(六十) 婆 摩 訶 悉 陀 夜(六十一) svāhā cakra asiddhāyā / 娑婆 訶(六十二) 者 吉囉阿 悉 陀 夜(六十三) svāhā / 娑婆 訶(六十四) padma kastāyā / 婆 摩 羯 悉哆 夜(六十五) svāhā / 娑婆 訶(六十六) narakinḍi vagarayā svāhā / 那 囉 謹 墀 皤 迦 囉 夜(六十七) 娑婆 訶(六十八) mavali śankrayā svāhā / 摩 婆 唎 勝 羯 夜(六十九) 娑婆 訶(七十) namaḥ ratnatrayāya / 南 無喝 囉 怛 那 多 囉 夜 耶(七十一) namo āryāvalokite śva / 南 無 阿 唎㖿(七十二) 婆 嚧 吉 帝(七十三) 爍皤 rāya svāhā / 囉 夜(七十四) 娑婆 訶 Oṃ sidhyantu mantra padāya svāhā / 唵悉殿都漫多囉跋陀耶娑婆訶

Tụng trì công đức và lợi ích[sửa | sửa mã nguồn]

Thập ngũ chỗ sanh tốt[sửa | sửa mã nguồn]

Nếu ai tụng trì thần chú đại bi, sẽ được 15 chỗ sanh tốt.

  1. Tùy theo chỗ sanh, thường gặp đấng quốc vương hiền lành.
  2. Tùy theo chỗ sanh, thường ở cõi nước an lành.
  3. Tùy theo chỗ sanh, thường gặp thời đại tốt.
  4. Tùy theo chỗ sanh, thường gặp bạn lành.
  5. Tùy theo chỗ sanh, thân căn thường được đầy đủ.
  6. Tùy theo chỗ sanh, đạo tâm thuần thục.
  7. Tùy theo chỗ sanh, không phạm cấm giới.
  8. Tùy theo chỗ sanh, thường được quyến thuộc hòa thuận, có ân nghĩa.
  9. Tùy theo chỗ sanh, vật dụng, thức ăn uống thường được đầy đủ.
  10. Tùy theo chỗ sanh, thường được người cung kính giúp đỡ.
  11. Tùy theo chỗ sanh, tiền của châu báu không bị kẻ khác cướp đoạt.
  12. Tùy theo chỗ sanh, những việc mong cầu đều được toại nguyện.
  13. Tùy theo chỗ sanh, long thiên, thiện thần thường theo ủng hộ.
  14. Tùy theo chỗ sanh, thường được thấy Phật nghe pháp.
  15. Tùy theo chỗ sanh, khi nghe chánh pháp ngộ giải nghĩa sâu.

Thập ngũ việc chết xấu[sửa | sửa mã nguồn]

Theo "Kinh Đại bi tâm Đà la ni" nếu người tụng trì thần chú Đại Bi, thì không bị 15 việc chết xấu, sẽ được 15 chỗ sanh tốt. Việc chết xấu là

  1. Không bị chết do đói khát khốn khổ.
  2. Không bị chết do gông tù đánh đập.
  3. Không bị chết vì oan gia thù địch.
  4. Không bị chết giữa quân trận chém giết nhau.
  5. Không bị chết do cọp sói cùng ác thú tàn hại.
  6. Không bị chết bởi rắn rít độc cắn.
  7. Không bị chết vì nước trôi lửa cháy.
  8. Không bị chết bởi phạm nhằm thuốc độc.
  9. Không bị chết do loài sâu trùng độc làm hại.
  10. Không bị chết vì điên cuồng mê loạn.
  11. Không bị chết do té cây, té xuống núi.
  12. Không bị chết bởi người ác trù ếm.
  13. Không bị chết bởi tà thần, ác quỷ làm hại.
  14. Không bị chết vì bịnh ác lâm thân.
  15. Không bị chết vì phi mạng tự hại.

Lợi ích khác[sửa | sửa mã nguồn]

Theo "Kinh Đại bi tâm Đà la ni" người tụng trì thần chú Đại bi có những lợi ích sau:

  1. Diệt trừ được tội nặng trong ngàn muôn ức kiếp sanh tử.
  2. Không bị đọa vào 3 đường ác, được sanh về các cõi Phật.
  3. Được vô lượng tam muội biện tài, được tất cả sự mong cầu trong đời hiện tại, được vừa ý. Duy trừ cầu những việc bất thiện, trừ kẻ tâm không chí thành.
  4. Diệt trừ tội xâm tổn tài vật, thức ăn uống của thường trụ.
  5. Không liền diệt được tội nặng, cũng có thể làm nhân bồ đề về kiếp xa sau.
  6. Chuyển đổi thân gái thành thân trai, biến thành nam tử.

Nay do tụng trì chú Đại Bi liền được trừ diệt. Tại sao thế? Bởi khi tụng chú Đại Bi tâm đà ra ni, 10 phương đạo sư đều đến vì làm chứng minh, nên tất cả tội chướng thảy đều tiêu diệt. Chúng sanh nào tụng chú này, tất cả tội thập ác ngũ nghịch, báng pháp, phá người, phá giới, phạm trai, hủy hoại chùa tháp, trộm của tăng kỳ, làm nhơ phạm hạnh, bao nhiêu tội ác nghiệp nặng như thế đều được tiêu hết, duy trừ một việc: kẻ tụng đối với chú còn sanh lòng nghi. Nếu có sanh tâm ấy, thì tội nhỏ nghiệp nhẹ cũng không được tiêu, huống chi tội nặng? Nhưng tuy không liền diệt được tội nặng, cũng có thể làm nhân bồ đề về kiếp xa sau.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b Việt Dịch: HT. Thích Thiền Tâm. “KINH THIÊN THỦ THIÊN NHÃN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT QUẢNG ĐẠI VIÊN MÃN ĐẠI BI TÂM ĐÀ LA NI”. line feed character trong |tiêu đề= tại ký tự số 26 (trợ giúp)
  2. ^ Kinh Dược Sư. Rộng Mở Tâm Hồn. tr. 9–11.
  3. ^ Lê Tự Hỷ: Chú Đại Bi: Về Bản Phạn Văn Và Ý Nghĩa Của Chú Đại Bi.
  4. ^ Lokesh Chandra 1979, tr. 10-14.
  5. ^ Lokesh Chandra 1988, tr. 93-94, 240.

Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]