Bước tới nội dung

Chrysiptera papuensis

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chrysiptera papuensis
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Nhánh Ovalentaria
Họ (familia)Pomacentridae
Chi (genus)Chrysiptera
Loài (species)C. papuensis
Danh pháp hai phần
Chrysiptera papuensis
Allen, Erdmann & Cahyani, 2015

Chrysiptera papuensis là một loài cá biển thuộc chi Chrysiptera trong họ Cá thia. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2015.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh papuensis được đặt theo tên của quốc gia mà loài cá này được phát hiện, Papua New Guinea (ensis: hậu tố chỉ nơi chốn).[1]

Phạm vi phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

C. papuensis hiện chỉ được biết đến tại vùng biển phía đông Papua New Guinea (trừ New Irelandđảo Manus), cụ thể tại ngoài khơi tỉnh Madang, các quần đảo trong tỉnh Milne Bay và phía tây New Britain, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 14 m.[2]

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở C. papuensis là 5,3 cm.[2]

Cá con của C. papuensisChrysiptera oxycephala rất khó phân biệt nếu chỉ dựa vào kiểu hình. Chúng đều có màu xanh lam ở đầu và gần như toàn bộ thân trước, và màu vàng tươi từ thân sau lan rộng đến cuống đuôi và bụng, cũng như trên vây đuôi, vây bụng và vây hậu môn.[2] Chrysiptera maurineae cũng có kiểu hình tương tự, nhưng màu xanh ở thân trên của C. maurineae còn lan rộng đến rìa trên của cuống đuôi.

Cá trưởng thành có màu nâu xám ở toàn bộ đầu và thân trên (nhạt dần về phía sau), phần thân còn lại màu vàng tươi với nhiều chấm nhỏ màu xanh ngọc lam trên khắp cơ thể và các vây. Mống mắt màu vàng, có cặp sọc xanh lam băng ngang đồng tử. Các vây có màu vàng, trừ vây ngực trong mờ không màu. Nửa ngoài vây đuôi trong mờ.[2] Màu nâu ở C. papuensis bao phủ rộng hơn vùng màu nâu của C. maurineae, vốn chỉ giới hạn ở gáy và một phần lưng trước.[3]

Số gai ở vây lưng: 13; Số tia vây ở vây lưng: 10–11; Số gai ở vây hậu môn: 2; Số tia vây ở vây hậu môn: 12–13; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số tia vây ở vây ngực: 14–15; Số lược mang: 29–31.[2]

Sinh thái học[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của C. papuensis có thể là động vật giáp xác như các thành viên trong phức hợp loài oxycephala. Cá đực có tập tính bảo vệ và chăm sóc trứng; trứng có độ dính và bám chặt vào nền tổ.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Scharpf, Christopher; Lazara, Kenneth J. (2021). “Series Ovalentaria (Incertae sedis): Family Pomacentridae”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2021.[liên kết hỏng]
  2. ^ a b c d e Allen, Erdmann & Cahyani, sđd, tr.72–75
  3. ^ Adams, Jake (22 tháng 12 năm 2015). “Chrysiptera papuensis, C. ellenae & C. maurineae - three new damselfish from East Indies”. Reef Builders. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2021.

Trích dẫn[sửa | sửa mã nguồn]