Halichoeres margaritaceus

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Halichoeres margaritaceus
Cá đực
Cá cái
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Labriformes
Họ (familia)Labridae
Chi (genus)Halichoeres
Loài (species)H. margaritaceus
Danh pháp hai phần
Halichoeres margaritaceus
(Valenciennes, 1839)
Danh pháp đồng nghĩa
Danh sách
    • Julis margaritaceus Valenciennes, 1839
    • Julis poecila Lay & Bennett, 1839
    • Julis harloffii Bleeker, 1847
    • Platyglossus opercularis Günther, 1862
    • Platyglossus equinus De Vis, 1885
    • Halichoeres daedalma Jordan & Seale, 1906
    • Halichoeres nafae Tanaka, 1908

Halichoeres margaritaceus là một loài cá biển thuộc chi Halichoeres trong họ Cá bàng chài. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1839.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Tính từ định danh margaritaceus trong tiếng Latinh mang nghĩa là "như ngọc trai", hàm ý đề cập đến các đốm trắng ở hai bên thân của cá cái.[2]

Phạm vi phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

Từ biển Andaman cùng quần đảo Cocos (Keeling)đảo Giáng Sinh, H. margaritaceus được phân bố trải dài đến toàn bộ khu vực Đông Nam Á và hầu hết các đảo quốc, quần đảo thuộc châu Đại Dương (đến tận Polynésie thuộc Phápquần đảo Pitcairn), ngược lên phía bắc vùng biển phía nam Nhật Bản, xa về phía nam đến Úc (bao gồm đảo Lord Howe, rạn san hô Great Barrierđảo Norfolk).[1][3]

Việt Nam, H. melanurus được ghi nhận tại đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi);[4] cù lao Chàm (Quảng Nam);[5] bờ biển Phú Yên;[6] vịnh Nha Trang (Khánh Hòa);[7] bờ biển Ninh Thuận;[8] cù lao Câu (Bình Thuận); đảo Phú Quốcquần đảo An Thới (Kiên Giang);[9] Côn Đảo;[10] cũng như tại quần đảo Hoàng Saquần đảo Trường Sa.[11]

H. margaritaceus sống trên rạn san hô viền bờ ở vùng nước nông, bờ biển đá và trong thảm cỏ biển có lẫn đá sỏi, độ sâu đến ít nhất là 15 m.[1]

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

H. margaritaceus có chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận là 13 cm. Màu sắc của H. margaritaceus rất giống với loài Halichoeres nebulosus. Cá đực không có vệt cong hình bumerang màu hồng cam trên má như H. nebulosus, thay vào đó là một vệt cong uốn ra phía sau, bao quanh một vệt sọc ngang. Cá cái màu ô liu trắng ở bụng, lốm đốm nhiều vệt trắng ở lưng và một vệt đỏ hồng nổi bật ở bụng. Có một đốm đen lớn nổi bật được viền vàng ở giữa vây (mờ dần khi chuyển thành cá đực). Cá đực xanh lục với các vệt đốm màu đỏ cam, cũng như có nhiều vệt sọc màu hồng cam trên đầu.[12][13][14]

Số gai ở vây lưng: 9; Số tia vây ở vây lưng: 11; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 11; Số tia vây ở vây ngực: 13; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số vảy đường bên: 27.[12]

Sinh thái học[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của H. margaritaceus là các loài thủy sinh không xương sống như giáp xác, nhuyễn thể, giun nhiều tơtrùng lỗ, cũng có thể bao gồm cá nhỏ và trứng cá.[15]

Thương mại[sửa | sửa mã nguồn]

H. margaritaceus được đánh bắt trong các hoạt động buôn bán cá cảnh.[13]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c Rocha, L. & Craig, M. (2010). Halichoeres margaritaceus. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2010: e.T187443A8537006. doi:10.2305/IUCN.UK.2010-4.RLTS.T187443A8537006.en. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2022.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Scharpf, Christopher; Lazara, Kenneth J. (2021). “Order Labriformes: Family Labridae (a-h)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2022.
  3. ^ R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). Halichoeres margaritaceus. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2022.
  4. ^ Nguyễn Văn Long (2016). “Hiện trạng và biến động quần xã cá rạn san hô ở khu bảo tồn biển Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi” (PDF). Tuyển tập Nghiên Cứu Biển. 22: 111–125.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  5. ^ Nguyễn Văn Long; Mai Xuân Đạt (2020). “Đặc trưng nguồn lợi cá trong các hệ sinh thái ở khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm - Hội An” (PDF). Vietnam Journal of Marine Science and Technology. 20 (1): 105–120. doi:10.15625/1859-3097/13553. ISSN 1859-3097.
  6. ^ Nguyễn Văn Long (2013). “Nguồn lợi cá rạn san hô vùng biển ven bờ Phú Yên”. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển. 13 (1): 31–40. ISSN 1859-3097.
  7. ^ Nguyễn Văn Long (2009). “Cá rạn san hô ở vùng biển ven bờ Nam Trung Bộ”. Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển T9. 3: 38–66.
  8. ^ Mai Xuân Đạt; Nguyễn Văn Long; Phan Thị Kim Hồng (2020). “Cá rạn san hô ở vùng biển ven bờ tỉnh Ninh Thuận” (PDF). Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển. 20 (4A): 125–139. doi:10.15625/1859-3097/15656. ISSN 1859-3097.
  9. ^ Nguyễn Hữu Phụng; Nguyễn Văn Long (1996). “Một số kết quả nghiên cứu cá rạn san hô ở An Thới (Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang)” (PDF). Tuyển tập nghiên cứu biển. 7: 84–93.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  10. ^ Trần Ngọc Cường biên tập (2013). “Thông Tin Về Đất Ngập Nước Ramsar (RIS) – Côn Đảo” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2022. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  11. ^ Nguyễn Hữu Phụng (2002). “Thành phần cá rạn san hô biển Việt Nam” (PDF). Tuyển tập Báo cáo Khoa học Hội nghị Khoa học "Biển Đông-2002": 275–308.
  12. ^ a b John E. Randall; Gerald R. Allen; Roger C. Steene (1998). The Fishes of the Great Barrier Reef and Coral Sea. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. tr. 318. ISBN 978-0824818951.
  13. ^ a b M. W. Westneat (2001). “Labridae”. Trong K. E. Carpenter; V. H. Niem (biên tập). The living marine resources of the Western Central Pacific. Volume 6. Bony Fishes Part 4 (Labridae to Latimeriidae) (PDF). FAO Species Identification Guide for Fishery Purposes. FAO. tr. 3435. ISBN 978-9251045893.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
  14. ^ Joe Shields (biên tập). Halichoeres margaritaceus Labridae”. Reef Life Survey. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2022.
  15. ^ Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Halichoeres margaritaceus trên FishBase. Phiên bản tháng 2 năm 2024.