Bước tới nội dung

Halichoeres penrosei

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Halichoeres penrosei
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Labriformes
Họ (familia)Labridae
Chi (genus)Halichoeres
Loài (species)H. penrosei
Danh pháp hai phần
Halichoeres penrosei
Starks, 1913

Halichoeres penrosei là một loài cá biển thuộc chi Halichoeres trong họ Cá bàng chài. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1913.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh penrosei được đặt theo tên của Richard Alexander Fullerton Penrose, Jr. (18631931), là nhà địa chất khai thác và một doanh nhân người Mỹ, người tỏ ra khá quan tâm đến chuyến thám hiểm của Đại học Stanford đến Brasil, nơi mẫu định danh của loài cá này được thu thập.[2]

Phạm vi phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

Bằng chứng di truyền chỉ ra rằng, quần thể trước đây được cho là Halichoeres maculipinna ở bờ biển Brasil là một loài riêng biệt, tức H. penrosei.[3] Loài này được phân bố từ bang Maranhão trải dài đến bang São Paulo, bao gồm đảo Trindade ngoài khơi.[1]

H. penrosei sống gần các rạn san hô ở độ sâu đến ít nhất là 30 m.[1]

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

H. penrosei có chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận là 13 cm.[4] Kiểu hình của H. penrosei rất giống với H. maculipinna. Cá con và cá cái còn nhỏ của hai loài đều có dải sọc đen từ mõm băng qua mắt kéo dài đến gốc vây đuôi, tuy nhiên dải màu phía trên dải đen này giữa hai loài có sự khác biệt. Ở H. maculipinna, dải phía trên có màu vàng (hoặc vàng lục), nhưng ở H. penrosei thì dải này màu nâu hồng. Vùng thân trắng dưới dải đen ở H. penrosei lại có thêm nhiều chấm cam trên vảy, điều này lại không có ở H. maculipinna. Cá đực trưởng thành của hai loài có màu xanh lục, vảy trên thân được viền hồng và có một đốm đen ở phần trước của vây lưng. Đầu có nhiều vệt sọc màu đỏ cam, nhưng sọc ở dưới đầu của H. penrosei nhìn chung ngắn hơn so với H. maculipinna.[3]

Số gai ở vây lưng: 9; Số tia vây ở vây lưng: 11; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 11; Số tia vây ở vây ngực: 14; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số lược mang: 13–15.[3]

Sinh thái học[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của H. penrosei chủ yếu là các loài thủy sinh không xương sống. Chúng có thể sống đơn độc hoặc bơi theo cặp.[4]

Thương mại[sửa | sửa mã nguồn]

H. penrosei được đánh bắt trong các hoạt động buôn bán cá cảnh.[1]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d Rocha, L.; Francini-Filho, R.; Craig, M.; Ferreira, B.; Moura, R. L.; Ferreira, C. E. & Liu, M. (2010). Halichoeres penrosei. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2010: e.T187771A8626461. doi:10.2305/IUCN.UK.2010-4.RLTS.T187771A8626461.en. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2022.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Scharpf, Christopher; Lazara, Kenneth J. (2021). “Order Labriformes: Family Labridae (a-h)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2022.
  3. ^ a b c Rocha, Luiz (2004). “Mitochondrial DNA and Color Pattern Variation in Three Western Atlantic Halichoeres (Labridae), with the Revalidation of Two Species” (PDF). Copeia. 2004: 770–782. doi:10.1643/CG-04-106.
  4. ^ a b Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Halichoeres penrosei trên FishBase. Phiên bản tháng 2 năm 2024.