Bước tới nội dung

Holacanthus clarionensis

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Holacanthus clarionensis
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Perciformes
Họ (familia)Pomacanthidae
Chi (genus)Holacanthus
Loài (species)H. clarionensis
Danh pháp hai phần
Holacanthus clarionensis
Gilbert, 1891

Holacanthus clarionensis là một loài cá biển thuộc chi Holacanthus trong họ Cá bướm gai. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1891.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh của loài được đặt theo tên của đảo Clarion, một trong ba hòn đảo (hai đảo còn lại là đảo Socorrođảo San Benedicto) ngoài khơi Tây México, nơi loài cá thần tiên này được ghi nhận là "cực kỳ nhiều" vào năm 1889[2].

Phạm vi phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

H. clarionensis có phạm vi phân bố tập trung ở Đông Thái Bình Dương. Loài này chủ yếu được tìm thấy ở xung quanh quần đảo Revillagigedo, bao gồm cả đảo Clarion. Ngoài ra, những cá thể H. clarionensis lang thang cũng nhiều lần được ghi nhận ở mũi cực nam của bán đảo Baja California (kể cả phía đông nam của vịnh California) và đảo Clipperton (thuộc Pháp)[1][3].

Loài này sống gần các rạn đá ngầm ở độ sâu khoảng từ 3 đến 30 m[1].

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

H. clarionensis có chiều dài cơ thể tối đa được biết đến là gần 28 cm[4]. Cơ thể hình chữ nhật, có thân màu nâu da cam, đầu nâu sẫm, vây đuôi màu cam sẫm. Phía sau đầu có một dải màu cam tươi. Vây lưng và vây hậu môn có viền màu xanh ánh kim. Cá con có thêm các vệt sọc màu xanh lam trên đầu và hai bên thân (tiêu biến khi chúng trưởng thành)[5][6]. H. clarionensis có miệng nhỏ với những chiếc răng giống như lông bàn chải. Nắp mang của chúng có một hàng gai[4].

Số gai ở vây lưng: 14; Số tia vây ở vây lưng: 17–19; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 18–19; Số tia vây ở vây ngực: 17–18; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5[5].

Loài nguy cấp[sửa | sửa mã nguồn]

H. clarionensis có phạm vi phân bố hạn chế, với phần lớn quần thể bị giới hạn tại một vị trí duy nhất là quần đảo Revillagigedo. Không những thế, loài này trước đây được đánh bắt bởi giới chơi cá cảnh, tuy nhiên quần đảo này hiện là một khu bảo tồn biển và việc đánh bắt các loài cá cũng bị nghiêm cấm[1].

Ngoài ra, ở vùng biển nhiệt đới phía đông Thái Bình Dương, tác động của hiện tượng El Niño đã dẫn đến tình trạng nước quá ấm và nghèo dinh dưỡng trong thời gian dài, gây nên sự suy giảm số lượng nghiêm trọng đối với các loài sống ở vùng nước nông, trong đó có cả H. clarionensis[1].

Do có phạm vi phân bố nhỏ hẹp và những thay đổi cực đoan về môi trường sống, H. clarionensis được xếp vào danh sách Loài sắp nguy cấp[1].

Sinh thái[sửa | sửa mã nguồn]

Những cá thể được cho là con lai giữa H. clarionensisHolacanthus passer đã được quan sát tại ngoài khơi Cabo San Lucas, Baja California, México[7].

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f Pyle, R.; Myers, R.F.; Rocha, L.A.; Robertson, R. (2010). Holacanthus clarionensis. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2010: e.T165861A6151012. doi:10.2305/IUCN.UK.2010-4.RLTS.T165861A6151012.en. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2021.
  2. ^ Scharpf, C.; Lazara, K. J. (2021). “Order ACANTHURIFORMES (part 1)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2021.
  3. ^ Froese Rainer, và Daniel Pauly (chủ biên) (2021). Holacanthus clarionensis trong FishBase. Phiên bản tháng 2 2021.
  4. ^ a b John Snow. “Clarion Angelfish, Holacanthus clarionensis. Mexico – Fish, Birds, Crabs, Marine Life, Shells and Terrestrial Life. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2021.
  5. ^ a b Gerald R. Allen; David R. Robertson (1994). Fishes of the Tropical Eastern Pacific. Nhà xuất bản Lucid Publishing. tr. 182. ISBN 978-0824816759.
  6. ^ “Species: Holacanthus clarionensis, Clarion angelfish”. Shorefishes of the Eastern Pacific online information system. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2021.
  7. ^ Enric Sala và cộng sự (1999). “Observations of a Probable Hybrid Angelfish of the Genus Holacanthus from the Sea of Cortez, México” (PDF). Pacific Science. 53 (2): 181–184.