Iniistius aneitensis

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Iniistius aneitensis
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Labriformes
Họ (familia)Labridae
Chi (genus)Iniistius
Loài (species)I. aneitensis
Danh pháp hai phần
Iniistius aneitensis
(Günther, 1862)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Novacula aneitensis Günther, 1862
  • Xyrichtys aneitensis (Günther, 1862)
  • Xyrichthys niveilatus Jordan & Evermann, 1903

Iniistius aneitensis là một loài cá biển thuộc chi Iniistius trong họ Cá bàng chài. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1862.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh của loài cá này bắt nguồn từ tên gọi của đảo Aneityum, một hòn đảo cực nam của Vanuatu, nơi mẫu gốc được tìm thấy[2].

Phạm vi phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

I. aneitensis có phạm vi phân bố rộng rãi trên Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương (thưa thớt ở Ấn Độ Dương và rộng rãi ở Tây Thái Bình Dương). Loài này đã được ghi nhận tại Kenya - Tanzania (bao gồm cả Zanzibar) và Mauritius; Maldivesquần đảo Chagos; từ quần đảo Cocos (Keeling)đảo Giáng Sinh (Úc), phạm vi của I. aneitensis mở rộng đến hầu hết vùng biển các nước Đông Nam Á, ngược lên phía bắc đến quần đảo Ryukyu (Nhật Bản) và đảo Đài Loan, xuống phía nam đến rạn san hô Great Barrierđảo Lord Howe; trải dào về phía đông đến nhiều đảo quốc, hải đảo thuộc châu Đại Dương; xa nhất về phía đông bắc là quần đảo Hawaii[1][3].

I. aneitensis sống trên nền đáy cát trong các đầm phá và các sườn dốc ven bờ ở độ sâu trong khoảng từ 12 đến ít nhất là 92 m[1].

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

Chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận ở I. aneitensis là 24 cm[3]. Trán dốc và cứng chắc là điểm đặc trưng của hầu hết các loài thuộc chi Iniistius. Điều này giúp chúng có thể dễ dàng đào hang dưới cát bằng đầu của mình.

I. aneitensis có một mảng đốm lớn màu trắng ở bên thân, sau vây ngực; vảy trên đốm có màu xanh lam óng. Cá đực có thêm một vùng màu vàng nhạt ở cạnh phía trước của đốm trắng này (ở cá cái có đốm màu vàng nâu). Cơ thể màu xám nhạt với 3 dải sọc nâu mờ ở hai bên thân, kéo dài thành đốm ở lưng. Dưới mắt có một đường sọc mờ màu xanh lam[4][5].

Số gai ở vây lưng: 9; Số tia vây ở vây lưng: 12; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 12; Số tia vây ở vây ngực: 12[4].

Sinh thái và hành vi[sửa | sửa mã nguồn]

I. aneitensis sống theo từng nhóm nhỏ, với một con đực trưởng thành đứng đầu và cai quản những con cá cái trong hậu cung của nó[5]. Như những loài Iniistius khác, I. aneitensis vùi mình xuống cát để ngủ vào ban đêm và né tránh những nguy hiểm vào ban ngày[3].

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c B. Russell (2010). Iniistius aneitensis. Sách đỏ IUCN. 2010: e.T187395A8523363. doi:10.2305/IUCN.UK.2010-4.RLTS.T187395A8523363.en. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2021.
  2. ^ C. Scharpf; K. J. Lazara (2020). “Order LABRIFORMES: Family LABRIDAE (i-x)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2021.
  3. ^ a b c Froese Rainer, và Daniel Pauly (chủ biên) (2019). Iniistius aneitensis trong FishBase. Phiên bản tháng 2 2019.
  4. ^ a b John E. Randall; Gerald R. Allen; Roger C. Steene (1997). The Fishes of the Great Barrier Reef and Coral Sea. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. tr. 340. ISBN 978-0824818951.
  5. ^ a b D. J. Bray (2019). “Whiteblotch Razorfish, Iniistius aneitensis (Günther 1862)”. Fishes of Australia. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2021.