Phùng Hưng

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Phùng Hưng
馮興
Vua Việt Nam
Tượng đồng Phùng Hưng tại đền thờ Cam Lâm.
Thủ lĩnh An Nam thời Bắc thuộc
Tiền nhiệmMai Hắc Đế
Kế nhiệmPhùng An
Thông tin chung
Sinh?
Mất?
An Nam
Hậu duệPhùng An
Thụy hiệu
Bố Cái Phu Hựu Chương Tín Sùng Nghĩa Đại vương (布盖孚祐彰信崇義大王)
Gọi tắt: Bố Cái Đại vương (布盖大王)
Thân phụPhùng Hạp Khanh
Thân mẫuSử Thục Nương

Phùng Hưng (chữ Hán: 馮興; ? – ?), nổi tiếng với tôn hiệu Bố Cái Đại Vương (chữ Hán: 布盖大王), là lãnh tụ khởi nghĩa chống lại sự đô hộ của nhà ĐườngAn Nam thời Bắc thuộc lần thứ ba (602–905) trong lịch sử Việt Nam.

Nguồn gốc tôn hiệu[sửa | sửa mã nguồn]

Tôn hiệu phổ biến của Phùng Hưng, Bố Cái Đại Vương (布盖大王), được coi là một trong những trường hợp sử dụng chữ Nôm bản địa cổ nhất hiện còn lưu truyền.[1][2] Việt điện u linh tập (1329) giải nghĩa hai chữ Bố Cái (布盖) là "bố mẹ", vì theo quốc tục mà đặt vậy. Các bộ chính sử về sau như Đại Việt sử ký toàn thư (1697) đời Hậu LêKhâm định Việt sử Thông giám cương mục (1859) đời Nguyễn đều dẫn cổ sử mà khẳng định tương tự. Trong Việt-Nam cổ văn học sử (1942), Nguyễn Đổng Chi nhận thấy sự tương đồng giữa danh hiệu trên và những từ chỉ đấng sinh thành trong tiếng Mường Lào như bọ "bố" và cày "mẹ".[3]

Tuy nhiên, tồn tại một luồng ý kiến trái chiều tới từ một số nhà ngôn ngữ học – tiêu biểu gồm có A.G. HaudricourtMei Tsu-Lin – cho rằng hai chữ kia đáng ra phải được hiểu là "bua/vua lớn" dựa trên bằng chứng ngữ âm tiếng Hán trung cổ và rằng cách đọc "bố cái" rõ ràng lệch thời.[4][2] Nhận xét về giả thuyết của Haudricourt, sử gia Keith W. Taylor trong công trình The Birth of Vietnam (1983) cho rằng đề xuất đó tuy "khá hợp lý và thú vị", song cũng phải chú ý rằng Việt điện u linh tập, vốn được soạn gần thời gian xảy ra sự kiện hơn, minh giải danh hiệu kia là "bố mẹ".[5] Dù vậy, trong một bài đăng sau đó trên tạp chí The Vietnam Forum (1986), Taylor rút lại nhận định của mình và cho rằng suy đoán của Haudricourt khá thuyết phục.[6]

Năm 1994, Nguyễn Tài Cẩn phản bác giả thuyết "bua/vua cái" trong một bài báo ngôn ngữ học viết bằng tiếng Nga, đọc trước hội thảo khoa học tại Sankt-Peterburg. Theo đó, hai luận điểm chính mà ông đưa ra là: (1) lý giải chữ "cái" ở đây là "lớn" không thích hợp về mặt ngữ nghĩa, bởi vì từ này thường được dùng cho các sự vật có tính đối lập nghĩa "lớn – nhỏ" hoặc "mẹ – con"; và (2) "bố mẹ" hoàn toàn có thể mang nghĩa "thủ lĩnh, lãnh đạo" mà không cần phải lập luận dựa trên sự thay đổi cách đọc chữ 布, sở dĩ vì hiện tượng lấy danh từ chỉ người bề trên để nói bóng về thủ lĩnh xuất hiện khá phổ biến trong các ngôn ngữ ở Đông Dương.[a][2]

Sử liệu[sửa | sửa mã nguồn]

Việt điện u linh tập (1392) của Lý Tế Xuyên là tác phẩm có soạn niên sớm nhất đề cập đến Phùng Hưng. Tuy nhiên, tất cả thông tin về thân thế và sự nghiệp của ông trong tác phẩm này thực chất được dẫn lại từ một tác phẩm khác, đã thất lạc, có nhan đề là Giao Châu ký (交州記), do một tác giả họ Triệu thời Đường biên soạn.[b]

Đáng chú ý, về thông tin của cuộc khởi nghĩa, các nguồn chính sử cận thời của Trung Quốc như Cựu Đường thư (k. 945), Tân Đường thư (k. 1054) và Tư trị thông giám (k. 1084) đều không thấy nói gì đến Phùng Hưng mà chỉ ghi nhận một thủ lĩnh An Nam tên là Đỗ Anh Hàn (杜英翰) dấy binh làm phản.[10][11][12]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Phụ chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Trong bài báo, ông có liệt kê một số cụm danh ngữ chỉ thủ lĩnh sau đây để củng cố lập luận của mình: tiếng Rụcpư kavêl (n.đ.'cha làng'), tiếng Khmerme sroc (n.đ.'mẹ làng'); tiếng Bahnarbốc tơm (n.đ.'ông già'); tiếng Lachipô mie nhu (n.đ.'bố mẹ già'), v.v.
  2. ^ Chỗ này có hai dị bản: một chép Triệu Công (bản A.47), một chép Triệu Vương (bản A.751). Dịch giả Lê Hữu Mục cho rằng người họ Triệu này không ai khác chính là Triệu Xương, viên quan giữ chức Đô hộ An Nam sau cái chết của Cao Chính Bình.[7] Nhà nghiên cứu Phạm Lê Huy (ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn) và sử gia Keith W. Taylor cũng nghiêng về quan điểm này.[8][9]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Đào 1975, tr. 42.
  2. ^ a b c Nguyễn 1996.
  3. ^ Nguyễn 1970, tr. 43.
  4. ^ de Francis 1977, tr. 22.
  5. ^ Taylor 1983, tr. 204, chú thích 96.
  6. ^ Taylor 1986.
  7. ^ Lý 1961, tr. 26, 154.
  8. ^ Phạm 2009.
  9. ^ Taylor 1983, tr. 331.
  10. ^ Cựu Đường thư, Quyển 13:
    "己未,安南首領杜英翰叛,攻都護府,都護高正平憂死。" [Kỷ Mậu, thủ lĩnh An Nam là Đỗ Anh Hàn làm phản, tấn công đô hộ phủ, đô hộ Cao Chính Bình lo sợ mà chết]
  11. ^ Tân Đường thư, Quyển 7:
    "四月,安南首領杜英翰反,伏誅。" [Tháng 4, thủ lĩnh An Nam là Đỗ Anh Hàn làm phản, lãnh án tử.]
  12. ^ Tư trị thông giám, Quyển 233:
    "安南都護高正平重賦斂,夏,四月,群蠻酋長杜英翰等起兵圍都護府,正平以憂死。" [Đô hộ An Nam là Cao Chính Bình thu thuế nặng, hè tháng 4, tù trưởng của bọn man là Đỗ Anh Hàn khởi binh vây hãm đô hộ phủ, Chính Bình vì vậy lo sợ mà chết.]

Nguồn cổ sử[sửa | sửa mã nguồn]

  • “卷13”  [Quyển 13]. 舊唐書 [Cựu Đường thư] (bằng tiếng Trung) – qua Wikisource.
  • “卷007”  [Quyển 7]. 新唐書 [Tân Đường thư] (bằng tiếng Trung) – qua Wikisource.
  • “卷233”  [Quyển 233]. 資治通鑑 [Tư trị thông giám] (bằng tiếng Trung) – qua Wikisource.
  • Lý, Tế Xuyên (1961) [1372]. Việt-điện u-linh tập. Lê Hữu Mục biên dịch. Sài Gòn: Khai-Trí.
  • Việt sử tiêu án, Soạn giả Ngô Thì Sĩ, Dịch giả Hội Việt Nam Nghiên cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu, Nhà xuất bản Văn Sử 1991
  • An Nam chí lược, soạn giả Lê Tắc, Nhà xuất bản Viện đại học Huế, 1961
  • Đại Việt Sử ký Toàn thư
  • Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục

Nguồn hiện đại[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]