Plectropomus maculatus

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Plectropomus maculatus
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Perciformes
Họ (familia)Serranidae
Phân họ (subfamilia)Epinephelinae
Tông (tribus)Epinephelini
Chi (genus)Plectropomus
Loài (species)P. maculatus
Danh pháp hai phần
Plectropomus maculatus
(Bloch, 1790)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Bodianus maculatus Bloch, 1790

Plectropomus maculatus là một loài cá biển thuộc chi Plectropomus trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1790.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Tính từ định danh maculatus trong tiếng Latinh có nghĩa là "lốm đốm", hàm ý đề cập đến các đốm màu xanh óng trên cơ thể của loài cá này.[2]

Phạm vi phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

Từ bờ biển Ấn Độ (gồm cả Lakshadweepquần đảo Andaman và Nicobar),[3] P. maculatus được phân bố trải dài về phía đông đến vùng biển các nước Đông Nam Á, Papua New Guineaquần đảo Solomon, ngược lên phía bắc đến cực nam đảo Đài Loan,[1] giới hạn phía nam đến Úc (từ Houtman Abrolhos, Tây Úc vòng qua phía bắc đến phía nam bang Queensland),[4] xa nhất ở phía đông đến Grande-Terre (Nouvelle-Calédonie).[5]

Việt Nam, P. maculatus được ghi nhận tại cù lao Chàm (Quảng Nam);[6] Ninh Thuận;[7] Phan Thiết,[8] cù lao Câu[9] và một số bãi ngầm xa bờ Bình Thuận;[10] Côn Đảo;[11] quần đảo An Thới (Phú Quốc, Kiên Giang).[12]

P. maculatus sống tập trung trên các rạn viền bờ (ít khi nhìn thấy ở khu vực rạn san hô ngoài khơi xa), độ sâu có thể đến ít nhất là 100 m.[4]rạn san hô Great Barrier, cá con được tìm thấy gần san hô Acropora dạng cụm, chủ yếu trên nền cát; cá trưởng thành thường sống gần Acropora dạng tấm hơn.[13]

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở P. maculatus là 125 cm.[4] Loài này có màu đỏ nâu hoặc lục xám tùy theo môi trường mà chúng sinh sống, nhưng trên cơ thể luôn xuất hiện dày đặc các chấm màu xanh lam óng. Các chấm xanh ở đầu và thân trước nhìn chung lớn hơn; một vài đốm thường kéo dài thành những vạch ngắn là đặc điểm giúp phân biệt P. maculatus với Plectropomus leopardus,[14] và có thể với cả Plectropomus pessuliferus.

Số gai ở vây lưng: 8; Số tia vây ở vây lưng: 11; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 16–17; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số vảy đường bên: 88–101.[15]

Sinh thái học[sửa | sửa mã nguồn]

P. maculatus mang giới tính đực từ khi còn là cá con, nhưng cũng có thể là từ cá cái trưởng thành chuyển đổi thành (những con đực này được gọi là lưỡng tính tiền nữ).[16]

P. maculatus có thể sống được đến ít nhất là 13 năm.[17] Loài cá mú này hợp thành đàn để sinh sản. Ở bờ đông Úc, P. maculatusP. leopardus có thể tạp giao với nhau.[18][19]

Thức ăn của P. maculatus chủ yếu là những loài cá nhỏ hơn, cá con còn có thể ăn cả động vật giáp xácđộng vật thân mềm.[4]

Loài bắt chước[sửa | sửa mã nguồn]

Cá con P. maculatus có thể bắt chước kiểu hình của một số loài cá nóc Canthigaster (như Canthigaster valentiniCanthigaster papua),[20] tuy nhiên ở rạn san hô Great Barrier, P. maculatus chưa trưởng thành còn bắt chước kiểu hình của cá lượng con Scolopsis monogramma.[21]

P. maculatus còn nhỏ lợi dụng vẻ ngoài giống với cá nóc độc để tránh sự săn lùng của những loài ăn thịt (gọi là bắt chước kiểu Bates) cũng như để tăng khả năng tiếp cận con mồi được nhắm đến (bắt chước tấn công). Tương tự, P. maculatus lợi dụng vẻ ngoài và hành vi tìm kiếm các loài giáp xác dưới đáy biển của S. monogramma để săn những loài cá bống sống dưới cát.[21]

Thương mại[sửa | sửa mã nguồn]

P. maculatus được khai thác ở vài nơi trong phạm vi phân bố của chúng.[1] Tuy là một loài cá thực phẩm được đánh giá có thịt rất ngon, P. maculatus có thể gây ngộ độc ciguatera.[4]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c Liu, M., Choat, J.H., Sadovy, Y., Craig, M.T., Ferreira, B. & Rocha, L.A. (2018). Plectropomus maculatus. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2018: e.T132818A100571771. doi:10.2305/IUCN.UK.2018-2.RLTS.T132818A100571771.en. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2022.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Christopher Scharpf (2022). “Order Perciformes: Suborder Serranoidei (part 5)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2022.
  3. ^ Akhilesh, K.V.; Rajan, P.T.; Vineesh, N.; Idreesbabu, K.K.; Bineesh, K.K.; Muktha, M.; Anulekshmi, C.; Manjebrayakath, H.; Gladston, Y. (2021). “Checklist of serranid and epinephelid fishes (Perciformes: Serranidae & Epinephelidae) of India” (PDF). Journal of the Ocean Science Foundation. 38: 35–65. doi:10.5281/zenodo.5151903.
  4. ^ a b c d e Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Plectropomus maculatus trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2023.
  5. ^ Fricke, Ronald; Teitelbaum, Antoine; Wantiez, Laurent (2015). “Twenty-one new records of fish species (Teleostei) from the New Caledonian EEZ (south-western Pacific Ocean)”. Marine Biodiversity Records. 8: e123. doi:10.1017/S1755267215000986. ISSN 1755-2672.
  6. ^ Nguyễn Văn Long; Mai Xuân Đạt (2020). “Đặc trưng nguồn lợi cá trong các hệ sinh thái ở khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm - Hội An” (PDF). Vietnam Journal of Marine Science and Technology. 20 (1): 105–120. doi:10.15625/1859-3097/13553. ISSN 1859-3097.
  7. ^ Mai Xuân Đạt; Nguyễn Văn Long; Phan Thị Kim Hồng (2020). “Cá rạn san hô ở vùng biển ven bờ tỉnh Ninh Thuận” (PDF). Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển. 20 (4A): 125–139. doi:10.15625/1859-3097/15656. ISSN 1859-3097.
  8. ^ Tống Xuân Tám; Nguyễn Thị Kiều; Đỗ Khánh Vân (2016). “Thành phần loài cá biển thu ở cảng cá tại thành phố Phan Thiết - tỉnh Bình Thuận”. Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm TP.HCM. 9 (87): 93–112.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  9. ^ Nguyễn Hữu Phụng (2002). “Thành phần cá rạn san hô biển Việt Nam” (PDF). Tuyển tập Báo cáo Khoa học Hội nghị Khoa học "Biển Đông-2002": 275–308.
  10. ^ Mai Xuân Đạt (2019). “Cá rạn san hô trong các bãi ngầm và đảo đá ở vùng biển ngoài khơi tỉnh Bình Thuận”. Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển. 19 (4A): 259–271. doi:10.15625/1859-3097/19/4A/14590. ISSN 1859-3097.[liên kết hỏng]
  11. ^ Trần Ngọc Cường biên tập (2013). “Thông Tin Về Đất Ngập Nước Ramsar (RIS) – Côn Đảo” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2022. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  12. ^ Nguyễn Hữu Phụng; Nguyễn Văn Long (1996). “Một số kết quả nghiên cứu cá rạn san hô ở An Thới (Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang)” (PDF). Tuyển tập nghiên cứu biển. 7: 84–93.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  13. ^ Wen, C. K. C.; Pratchett, M. S.; Almany, G. R.; Jones, G. P. (2013). “Patterns of recruitment and microhabitat associations for three predatory coral reef fishes on the southern Great Barrier Reef, Australia”. Coral Reefs. 32 (2): 389–398. doi:10.1007/s00338-012-0985-x. ISSN 1432-0975.
  14. ^ Bray, D. J. (2018). “Barcheek Coral Trout, Plectropomus maculatus (Bloch 1790)”. Fishes of Australia. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2022.
  15. ^ John E. Randall; Gerald R. Allen; Roger C. Steene (1998). The Fishes of the Great Barrier Reef and Coral Sea. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. tr. 118. ISBN 978-0824818951.
  16. ^ Adams, S. (2003). “Morphological ontogeny of the gonad of three plectropomid species through sex differentiation and transition”. Journal of Fish Biology. 63 (1): 22–36. doi:10.1046/j.1095-8649.2003.00098.x.
  17. ^ Currey, Leanne M.; Simpfendorfer, Colin A.; Williams, Ashley J. (2009). “Resilience of reef fish species on the Great Barrier Reef and in Torres Strait” (PDF). Project Milestone Report: 1–32.
  18. ^ Frisch, A.; Van Herwerden, L. (2006). “Field and experimental studies of hybridization between coral trouts, Plectropomus leopardus and Plectropomus maculatus (Serranidae), on the Great Barrier Reef, Australia”. Journal of Fish Biology. 68 (4): 1013–1025. doi:10.1111/j.0022-1112.2006.00977.x. ISSN 0022-1112.
  19. ^ van Herwerden, L.; Choat, J. H.; Dudgeon, C. L.; Carlos, G.; Newman, S. J.; Frisch, A.; van Oppen, M. (2006). “Contrasting patterns of genetic structure in two species of the coral trout Plectropomus (Serranidae) from east and west Australia: introgressive hybridisation or ancestral polymorphisms”. Molecular Phylogenetics and Evolution. 41 (2): 420–435. doi:10.1016/j.ympev.2006.04.024. ISSN 1055-7903. PMID 16806990.
  20. ^ Frisch, Ashley J. (2006). “Are juvenile coral-trouts (Plectropomus) mimics of poisonous pufferfishes (Canthigaster) on coral reefs?”. Marine Ecology. 27 (3): 247–252. doi:10.1111/j.1439-0485.2006.00103.x. ISSN 0173-9565.
  21. ^ a b Chen, K.-S.; Wen, C. K.-C. (2018). “The predator's new clothes: juvenile Plectropomus maculatus, a mimic of Scolopsis monogramma”. Coral Reefs. 37 (4): 1241–1241. doi:10.1007/s00338-018-01746-9. ISSN 1432-0975.

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • He, Song; Harrison, Hugo B.; Berumen, Michael L. (2018). “Species delineation and hybrid identification using diagnostic nuclear markers for Plectropomus leopardus and Plectropomus maculatus”. Fisheries Research. 206: 287–291. doi:10.1016/j.fishres.2018.05.022. ISSN 0165-7836.