U-149 (tàu ngầm Đức) (1940)

Lịch sử
Đức Quốc Xã
Tên gọi U-149
Đặt hàng 25 tháng 9, 1939
Xưởng đóng tàu Deutsche Werke, Kiel
Số hiệu xưởng đóng tàu 278
Đặt lườn 25 tháng 5, 1940
Hạ thủy 19 tháng 10, 1940
Nhập biên chế 13 tháng 11, 1940
Số phận
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Tàu ngầm duyên hải Type IID
Trọng tải choán nước
  • 314 t (309 tấn Anh) (nổi)
  • 364 t (358 tấn Anh) (chìm)
  • 460 t (450 tấn Anh) (toàn phần)
Chiều dài
  • 43,97 m (144 ft 3 in) (chung)
  • 29,8 m (97 ft 9 in) (lườn áp lực)
Sườn ngang
  • 4,916 m (16 ft 1,5 in) (chung)
  • 4 m (13 ft 1 in) (lườn áp lực)
Chiều cao 8,40 m (27 ft 7 in)
Mớn nước 3,93 m (12 ft 11 in)
Công suất lắp đặt
  • 700 PS (510 kW; 690 shp) (diesel)
  • 410 PS (300 kW; 400 shp) (điện)
Động cơ đẩy
Tốc độ
  • 12,7 hải lý trên giờ (23,5 km/h; 14,6 mph) (nổi)
  • 7,4 hải lý trên giờ (13,7 km/h; 8,5 mph) (lặn)
Tầm xa
  • 3.450 hải lý (6.390 km; 3.970 mi) ở tốc độ 12 hải lý trên giờ (22 km/h; 14 mph) (nổi)
  • 56 hải lý (104 km; 64 mi) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h; 4,6 mph) (lặn)
Độ sâu thử nghiệm 80 m (260 ft)
Thủy thủ đoàn tối đa 3 sĩ quan, 22 thủy thủ
Vũ khí
Lịch sử phục vụ
Một phần của:
Mã nhận diện: M 16 105
Chỉ huy:
  • Trung úy / Đại úy Horst Höltring
  • 13 tháng 11, 1940 – 30 tháng 11, 1941
  • Đại úy Rolf Borchers
  • 1 tháng 12, 1941 – 31 tháng 7, 1942
  • Trung úy Adolf-Whilhelm von Hammerstein-Equord
  • 1 tháng 8, 1942 – 14 tháng 5, 1944
  • Trung úy Helmut Plohr
  • 15 tháng 5, 1944 – 5 tháng 5, 1945
Chiến dịch:
  • 1 chuyến tuần tra:
  • 18 tháng 6 - 11 tháng 7, 1941
Chiến thắng: 1 tàu chiến bị đánh chìm
(206 tấn)

U-149 là một tàu ngầm duyên hải Lớp Type II thuộc phân lớp Type IID được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo vào đầu Chiến tranh Thế giới thứ hai. Những tàu ngầm Type II vốn quá nhỏ để có thể tiến hành các chiến dịch cách xa căn cứ nhà, nên chúng hầu như chỉ đảm nhiệm vai trò tàu huấn luyện tại các trường tàu ngầm Đức. Được huy động do tình trạng thiếu hụt tàu ngầm sau khi xung đột bùng nổ, U-149 thực hiện một chuyến tuần tra duy nhất trong biển Baltic, và đã đánh chìm một tàu ngầm Liên Xô tải trọng 206 tấn.[2] Sau đó U-149 được rút về làm nhiệm vụ huấn luyện cho đến hết chiến tranh, và đã đầu hàng lực lượng Đồng Minh tại Helgoland vào tháng 5, 1945. Cuối cùng nó bị đánh đắm trong Chiến dịch Deadlight vào tháng 12, 1945.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Phân lớp Type IID là một phiên bản mở rộng của Type IIC dẫn trước. Chúng có trọng lượng choán nước 314 t (309 tấn Anh) khi nổi và 364 t (358 tấn Anh) khi lặn); tuy nhiên tải trọng tiêu chuẩn được công bố chỉ có 250 tấn Anh (254 t).[3] Chúng có chiều dài chung 43,97 m (144 ft 3 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 29,80 m (97 ft 9 in), mạn tàu rộng 4,92 m (16 ft 2 in), chiều cao 8,40 m (27 ft 7 in) và mớn nước 3,93 m (12 ft 11 in).[3]

Chúng trang bị hai động cơ diesel MWM RS 127 S 6-xy lanh 4 thì công suất 700 mã lực mét (510 kW; 690 shp) để đi đường trường và hai động cơ/máy phát điện Siemens-Schuckert PG VV 322/36 tổng công suất 460 mã lực mét (340 kW; 450 shp) để lặn, hai trục chân vịt và hai chân vịt đường kính 0,85 m (3 ft). Các con tàu có thể lặn đến độ sâu 80–150 m (260–490 ft).[3] Chúng đạt được tốc độ tối đa 12,7 kn (23,5 km/h) trên mặt nước và 7,4 kn (13,7 km/h) khi lặn,[3] với tầm hoạt động tối đa 3.800 nmi (7.000 km) khi đi tốc độ đường trường 8 kn (15 km/h), và 35–42 nmi (65–78 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h) khi lặn.[3]

Vũ khí trang bị bao gồm ba ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in) trước mũi, mang theo tổng cộng năm quả ngư lôi hoặc cho đến 12 quả thủy lôi TMA. Một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) cũng được trang bị trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 25 sĩ quan và thủy thủ.[3]

U-149 được đặt hàng vào ngày 25 tháng 9, 1939.[1] Nó được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Deutsche Werke tại Kiel vào ngày 25 tháng 5, 1940,[1] hạ thủy vào ngày 19 tháng 10, 1940,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 13 tháng 11, 1940[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Đại úy Hải quân Horst Höltring.[1]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

U-149 thoạt tiên phục vụ cùng Chi hạm đội U-boat 1, rồi đến tháng 1, 1941 được điều sang Chi hạm đội U-boat 22 cho đến hết chiến tranh. Trong chuyến tuần tra duy nhất mà nó thực hiện trong biển Baltic từ ngày 18 tháng 6 đến ngày 11 tháng 7, 1941, nó đã đánh chìm tàu ngầm Liên Xô lớp M M-99 (206 tấn) trong vịnh Phần Lan về phía Tây Bắc đảo Hiiumaa, Estonia, ở khoảng tọa độ 59°20′B 21°12′T / 59,333°B 21,2°T / 59.333; -21.200.[1]

Vào giai đoạn kết thúc xung đột, U-149 đã đầu hàng lực lượng Đồng Minh tại Helgoland vào ngày 5 tháng 5, 1945.[1] Nó sau đó được kéo đến Wilhelmshaven vào ngày 30 tháng 6, và cuối cùng bị đánh chìm trong khuôn khổ Chiến dịch Deadlight vào ngày 21 tháng 12, 1945, tại tọa độ 55°40′B 8°00′T / 55,667°B 8°T / 55.667; -8.000.[1]

Tóm tắt chiến công[sửa | sửa mã nguồn]

U-149 đã đánh chìm một tàu chiến tải trọng 206 tấn:

Ngày Tên tàu Quốc tịch Tải trọng[Ghi chú 1] Số phận[2]
27 tháng 6, 1941 M-99  Hải quân Liên Xô 206 Bị đánh chìm

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Tàu buôn theo tấn đăng ký toàn phần. Tàu quân sự theo trọng lượng choán nước.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i j Helgason, Guðmundur. “The Type IID U-boat U-149”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2024.
  2. ^ a b Helgason, Guðmundur. “Ships hit by U-149”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2024.
  3. ^ a b c d e f Gröner 1991, tr. 39–40.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

  • Helgason, Guðmundur. “The Type IID boat U-149”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2024.
  • Hofmann, Markus. “U 149”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2024.