I-2 (tàu ngầm Nhật)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu ngầm chị em I-1, chiếc dẫn đầu của lớp Junsen
Lịch sử
Đế quốc Nhật Bản
Tên gọi Tàu ngầm tuần dương số 75
Xưởng đóng tàu Kawasaki, Kobe
Đặt lườn 6 tháng 8, 1923
Đổi tên I-2, 1 tháng 11, 1924
Hạ thủy 23 tháng 2, 1925
Hoàn thành 24 tháng 7, 1926
Nhập biên chế 24 tháng 7, 1926
Xuất biên chế 15 tháng 11, 1929
Tái biên chế 15 tháng 11, 1930
Xuất biên chế 1 tháng 10, 1935
Tái biên chế 1 tháng 12, 1936
Xuất biên chế 15 tháng 11, 1939
Tái biên chế 31 tháng 7, 1941
Xóa đăng bạ 10 tháng 6, 1944
Số phận Bị tàu khu trục USS Saufley đánh chìm trong biển Bismarck, 7 tháng 4, 1944
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu tàu ngầm lớp Junsen 1
Trọng tải choán nước
  • 2.135 tấn Anh (2.169 t) (nổi) [1]
  • 2.791 tấn Anh (2.836 t) (lặn) [1]
Chiều dài 97,50 m (319 ft 11 in)[1]
Sườn ngang 9,22 m (30 ft 3 in)[1]
Chiều cao 7,58 m (24 ft 10 in)[1]
Mớn nước 4,94 m (16 ft 2 in)[1]
Công suất lắp đặt
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 24.400 nmi (45.200 km) ở tốc độ 10 kn (19 km/h; 12 mph) (nổi) [1]
  • 60 nmi (110 km) ở tốc độ 3 kn (5,6 km/h; 3,5 mph) (ngầm)
Tầm hoạt động 545 tấn nhiên liệu
Độ sâu thử nghiệm 80 m (260 ft)[1]
Số tàu con và máy bay mang được 1 x xuồng đổ bộ Daihatsu 46 ft (14 m) (bổ sung năm 1943)
Thủy thủ đoàn tối đa 68 sĩ quan và thủy thủ[1]
Vũ khí

I-2 là một tàu ngầm tuần dương lớp Junsen 1 (巡潜一型?) bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nhập biên chế vào năm 1926, nó đã phục vụ trong cuộc Chiến tranh Trung-NhậtChiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu đã hỗ trợ cho cuộc tấn công Trân Châu Cảng, càn quét tàu bè tại Ấn Độ Dương, và tham gia các chiến dịch quần đảo Aleut, Guadalcanal, New GuineaChiến dịch Ke. I-2 bị tàu khu trục Hoa Kỳ USS Saufley đánh chìm trong biển Bismarck vào ngày 7 tháng 4, 1944.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế[sửa | sửa mã nguồn]

Junsen 1 (J1) là một lớp tàu ngầm tuần dương vốn được thiết kế chịu ảnh hưởng bởi chiếc SM U-142 thời Thế Chiến I của Đế quốc Đức. Chúng có trọng lượng choán nước 2.169 tấn (2.135 tấn Anh) khi nổi và 2.836 tấn (2.791 tấn Anh) khi lặn,[1] lườn tàu có chiều dài 97,5 m (319 ft 11 in), mạn tàu rộng 9,22 m (30 ft 3 in) và mớn nước sâu 4,94 m (16 ft 2 in).[1] Con tàu có thể lặn sâu 80 m (262 ft)[1] và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 68 sĩ quan và thủy thủ.[1]

Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel MAN 10-xy lanh bốn thì công suất 6.000 mã lực phanh (4.474 kW),[1] mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện 1.300 mã lực (969 kW).[1] Con tàu có thể đạt tốc độ tối đa 18 hải lý trên giờ (33 km/h; 21 mph) khi nổi và 8 hải lý trên giờ (15 km/h; 9,2 mph) khi lặn.[1] Khi Junsen 1 di chuyển trên mặt nước nó đạt tầm xa hoạt động 24.400 hải lý (45.200 km; 28.100 mi) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph),[1] và có thể lặn xa 60 nmi (110 km; 69 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).

Lớp Junsen I có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), gồm bốn ống bố trí trước mũi và hai ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 20 quả ngư lôi Kiểu 95.[1] Vũ khí trên boong tàu bao gồm hai khẩu hải pháo 14 cm (5,5 in), được bố trí phía trước và phía sau cầu tàu.[1]

Chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

I-2 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm tuần dương số 75 tại xưởng tàu của hãng Kawasaki tại Kobe vào ngày 6 tháng 8, 1923.[3][4] Đang khi chế tạo, nó được đổi tên thành I-2 vào ngày 1 tháng 11, 1924[3][4] và được hạ thủy vào ngày 23 tháng 2, 1925.[3][4] Con tàu hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 24 tháng 7, 1926.[3][4]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

1926 - 1936[sửa | sửa mã nguồn]

Vào lúc nhập biên chế, I-2 được điều về Quân khu Hải quân Yokosuka,[3][4] và nó di chuyển từ Kobe đến Yokosuka vào cuối tháng 7, 1926.[4] Nó cùng tàu chị em I-1 được phân về Đội tàu ngầm 7 thuộc Hải đội Tàu ngầm 2 trực thuộc Đệ Nhị hạm đội, trong thành phần Hạm đội Liên hợp vào ngày 1 tháng 8, 1926.[3][4] Đội khu trục 7 lại được điều về Đội phòng vệ Yokosuka trực thuộc Quân khu Hải quân Yokosuka vào ngày 1 tháng 7, 1927,[3] và đến ngày 15 tháng 9, Đội khu trục 7 lại được điều động sang Hải đội Tàu ngầm 2 trực thuộc Đệ Nhị hạm đội.[3][5] Vào ngày 5 tháng 11, 1929, nó được cho xuất biên chế và đưa về thành phần dự bị,[4] và đến ngày 30 tháng 11, Đội tàu ngầm 7 được điều về Đội phòng vệ Yokosuka trực thuộc Quân khu Hải quân Yokosuka.[3]

Vào ngày 1 tháng 8, 1930, Đội tàu ngầm 7 được phối thuộc trở lại cùng Hải đội Tàu ngầm 1 trực thuộc Đệ Nhất hạm đội, thuộc thành phần Hạm đội Liên hợp.[3] Đang khi trong thành phần dự bị, I-2 được hiện đại hóa, thay thế động cơ diesel do Đức chế tạo và toàn bộ dàn ắc-quy bằng sản phẩm nội địa.[4] Sau khi hoàn tất việc nâng cấp, con tàu được tái biên chế vào ngày 15 tháng 11, 1930,[4] và gia nhập trở lại Đội tàu ngầm 7. Đến ngày 1 tháng 10, 1931, đơn vị này lại được điều động sang Đội phòng vệ Yokosuka trực thuộc Quân khu Hải quân Yokosuka,[3] nhưng quay trở lại Hải đội Tàu ngầm 1 trực thuộc Đệ Nhất hạm đội vào ngày 1 tháng 12, 1931.[3] Một lượt điều động thứ ba sang Đội phòng vệ Yokosuka trực thuộc Quân khu Hải quân Yokosuka lại diễn ra từ ngày 1 tháng 10, 1932[3] đến ngày 15 tháng 11, 1933.[3]

Vào ngày 29 tháng 3, 1935, I-2 khởi hành từ Sasebo, để cùng các đồng đội thuộc Hải đội Tàu ngầm 1, bao gồm I-1I-3 thuộc Đội tàu ngầm 7 cùng I-4, I-5I-6 thuộc Đội tàu ngầm 8, thực hiện một chuyến đi huấn luyện tại vùng biển Trung Quốc.[3][6][7][8][9][10] Chúng kết thúc chuyến đi huấn luyện khi về đến Sasebo vào ngày 4 tháng 4, 1935.[3][6][7][8][9][10] Đến ngày 1 tháng 10, 1935, I-2 lại được cho xuất biên chế và đưa về thành phần dự bị để tái cấu trúc,[4] rồi sang ngày 15 tháng 11, 1935, Đội tàu ngầm 7 được điều về Hải đội Phòng vệ Yokosuka trực thuộc Quân khu Hải quân Yokosuka,[3]

Trong đợt nâng cấp thứ hai này, hệ thống sonar của I-2 do Hoa Kỳ chế tạo được thay thế bằng kiểu sản xuất trong nước, và tháp chỉ huy có hình dáng suôn thẳng hơn.[4] Đội tàu ngầm 7 được điều động quay trở lại Hải đội Tàu ngầm 1 trực thuộc Đệ Nhất hạm đội vào ngày 20 tháng 1, 1936,[3]I-2 sau khi hoàn thành việc hiện đại hóa được tái biên chế và gia nhập trở lại đơn vị này vào ngày 1 tháng 12, 1936.[3][4] Vào ngày 27 tháng 3, 1937, I-2 rời Sasebo để cùng các chiếc I-1, I-3, I-4, I-5I-6 hoạt động huấn luyện tại khu vực Thanh Đảo, Trung Quốc.[3][6][7][8][9][10][4] Chúng kết thúc đợt huấn luyện khi về đến vịnh Ariake vào ngày 6 tháng 4, 1937.[3][4][6][7][8][9][10]

Chiến tranh Trung-Nhật[sửa | sửa mã nguồn]

Chiến tranh Trung-Nhật bùng nổ sau khi xảy ra sự kiện Lư Câu Kiều (cầu Marco Polo) vào ngày 7 tháng 7, 1937.[4] Đến tháng 9, 1937, Hải đội Tàu ngầm 1 được điều sang Đệ Tam hạm đội[11] và phối thuộc cùng Hạm đội khu vực Trung Quốc để hoạt động tại vùng biển Trung Quốc.[11] Hải đội, bao gồm các tàu I-1, I-2, I-3, I-4, I-5I-6,[11] đã được phái đến căn cứ tại Hong Kong cùng với các tàu tiếp liệu tàu ngầm ChōgeiTaigei vào tháng 9, 1937.[11] Từ căn cứ này, các tàu ngầm tham gia phong tỏa Trung Quốc và tuần tra dọc bờ biển phía Đông và phía Nam Trung Quốc.[11]

Từ ngày 20[3] hoặc 21 tháng 8[4] đến ngày 23 tháng 8, 1937, cả sáu chiếc tàu ngầm thuộc Hải đội Tàu ngầm 1 đã hoạt động trong biển Hoa Đông như lực lượng bảo vệ từ xa cho các thiết giáp hạm Nagato, Mutsu, HarunaKirishima cùng tàu tuần dương hạng nhẹ Isuzu làm nhiệm vụ vận chuyển binh lính từ Tadotsu, Shikoku đến Thượng Hải, Trung Quốc.[4] Hải đội Tàu ngầm 1 đặt căn cứ tại Hong Kong cho đến mùa Thu năm 1938.[11] Trong một nỗ lực nhằm giảm căng thẳng trong quan hệ quốc tế do cuộc xung đột với Trung Quốc, Nhật Bản cho rút lực lượng tàu ngầm của họ khỏi vùng biển Trung Quốc từ tháng 12, 1938.[11]

1938 – 1941[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y “Type J1”. combinedfleet.com. 2016. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2024.
  2. ^ Campbell (1985), tr. 191.
  3. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v “I-2 ex No-75”. ijnsubsite.com. 1 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  4. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2013). “IJN Submarine I-2: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  5. ^ “Submarine Division 7”. ijnsubsite.com. 1 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2024.
  6. ^ a b c d “I-1(1) ex No-74”. ijnsubsite.com. 15 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2024.
  7. ^ a b c d “I-3 ex No-76”. ijnsubsite.com. 3 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2024.
  8. ^ a b c d “I-4 ex No-61”. ijnsubsite.com. 18 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2024.
  9. ^ a b c d “I-5”. ijnsubsite.com. 18 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2024.
  10. ^ a b c d “I-6”. ijnsubsite.com. 18 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2024.
  11. ^ a b c d e f g Boyd & Yoshida (1995), tr. 54.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]