Bước tới nội dung

Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Quản lý căng thẳng”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Tạo với bản dịch của trang “Stress management
(Không có sự khác biệt)

Phiên bản lúc 11:55, ngày 4 tháng 4 năm 2018

Quản lý căng thẳng là một loạt các kỹ thuật và các liệu pháp tâm lý nhằm kiểm soát mức căng thẳng của một người, đặc biệt là stress mạn tính, thường nhằm mục đích cải thiện hoạt động hàng ngày. Trong ngữ cảnh này, thuật ngữ "căng thẳng" chỉ đề cập đến một sự căng thẳng với những hậu quả tiêu cực đáng kể, hoặc là sự căng thẳng trong thuật ngữ được Hans Selye ủng hộ chứ không phải là cái mà ông gọi là eustress, một sự căng thẳng có hậu quả là hữu ích hay ngược lại.

Stress tạo ra nhiều triệu chứng về thể chất và tâm thần thay đổi theo các yếu tố tình huống của từng cá nhân. Những điều này có thể bao gồm sự suy giảm sức khoẻ thể chất cũng như trầm cảm. Quá trình quản lý căng thẳng được đặt tên như một trong những chìa khóa cho một cuộc sống hạnh phúc và thành công trong xã hội hiện đại. Mặc dù cuộc sống cung cấp nhiều yêu cầu có thể chứng minh là khó nắm bắt, quản lý căng thẳng cung cấp một số cách để quản lý sự lo lắng và duy trì sức khoẻ tổng thể.

Mặc dù căng thẳng thường được coi là một trải nghiệm chủ quan, nhưng mức căng thẳng có thể đo được dễ dàng, sử dụng các kiểm tra sinh lý khác nhau, tương tự như các phép đo được sử dụng trong máy phát hiện nói dối.

Nhiều kỹ thuật quản lý căng thẳng thực tế đã sẵn có, một số sử dụng cho các chuyên gia y tế và những người khác, để giúp đỡ bản thân giúp giảm mức căng thẳng, tạo cảm giác tích cực trong việc kiểm soát cuộc sống và thúc đẩy phúc lợi chung.

Đánh giá hiệu quả của các kỹ thuật quản lý căng thẳng khác nhau có thể khó khăn, vì nghiên cứu hạn chế hiện nay tồn tại. Do đó, số lượng và chất lượng bằng chứng cho các kỹ thuật khác nhau rất khác nhau. Một số được chấp nhận là phương pháp điều trị hiệu quả để sử dụng trong liệu pháp tâm lý, trong khi một số khác có ít bằng chứng ủng hộ chúng được xem là phương pháp điều trị thay thế. Nhiều tổ chức nghề nghiệp tồn tại để thúc đẩy và đào tạo các liệu pháp thông thường hoặc thay thế.

Có một số mô hình quản lý căng thẳng, mỗi người đều có những giải thích đặc biệt về cơ chế kiểm soát căng thẳng. Nhiều nghiên cứu hơn là cần thiết để cung cấp một sự hiểu biết tốt hơn về cơ chế nào thực sự hoạt động và có hiệu quả trong thực tế.

Nền tảng lịch sử

Walter CannonHans Selye đã sử dụng các nghiên cứu trên động vật để xác lập cơ sở khoa học sớm nhất để nghiên cứu về căng thẳng. Họ đã đo lường phản ứng sinh lý của động vật đối với áp lực bên ngoài, như nhiệt và lạnh, kiềm chế kéo dài, và các thủ tục phẫu thuật, sau đó ngoại suy từ các nghiên cứu này đến con người.

Các nghiên cứu sau đó về sự căng thẳng ở người do Richard Rahe và các nhà nghiên cứu khác đã đưa ra quan điểm cho rằng căng thẳng là do những căng thẳng cuộc sống rõ rệt, có thể đo lường được, và hơn nữa, những căng thẳng cuộc sống này có thể được xếp loại bởi mức độ căng thẳng trung bình mà họ tạo ra (dẫn đến thang căng thẳng Holmes và Rahe). Do đó, căng thẳng theo truyền thống được khái niệm hoá là kết quả của những lời chế nhạo bên ngoài vượt quá sự kiểm soát của những người trải qua căng thẳng. Gần đây hơn, tuy nhiên, người ta đã lập luận rằng các trường hợp bên ngoài không có khả năng tự gây ra căng thẳng, nhưng thay vào đó ảnh hưởng của họ lại được trung gian bởi nhận thức, năng lực và sự hiểu biết của cá nhân.

Mô hình

Các mô hình tổng quát là:

  • Trường hợp khẩn cấp/chiến đấu hoặc chuyến bay phản ứng của Walter Cannon (1914, 1932)
  • Hội chứng Thích ứng Chung của Hans Selye (1936)
  • Mô hình Căng thẳng của Henry
  • Mô hình Căng thẳng (stress) về giao dịch (hoặc nhận thức) của Lazarus sau Lazarus (1974)
  • Lý thuyết về bảo tồn nguồn tài nguyên của Stevan Hobfoll (1988, 1998, Hobfoll & Buchwald, 2004)

Mô hình giao dịch

Mô hình tương hổ về căng thẳng và đối phó của Richard Lazarus

Richard Lazarus và Susan Folkman đề nghị vào năm 1981 rằng căng thẳng có thể được nghĩ là do "sự mất cân bằng giữa nhu cầu và nguồn lực" hoặc khi xảy ra khi "áp lực vượt quá khả năng nhận thức của một người để đối phó". Quản lý căng thẳng đã được phát triển và dựa trên ý tưởng rằng căng thẳng không phải là phản ứng trực tiếp với người căng thẳng mà là nguồn lực của họ và khả năng ứng phó với stress và có thể thay đổi, do đó cho phép kiểm soát căng thẳng.

Trong số nhiều người căng thẳng mà nhân viên đề cập, đây là những điều phổ biến nhất:

  • Cuộc xung đột trong công ty
  • Cách các nhân viên đang được đối xử bởi ông chủ /người giám sát của họ hoặc công ty
  • Thiếu an toàn nghề nghiệp
  • Chính sách của công ty
  • Đồng nghiệp những người không chia sẻ công bằng
  • Kỳ vọng không rõ ràng
  • Giao tiếp kém
  • Không đủ quyền kiểm soát các bài tập
  • Chi trả hoặc phúc lợi không đầy đủ
  • Thời hạn khẩn cấp
  • Quá nhiều công việc
  • Giờ làm việc dài
  • Điều kiện vật lý không thoải mái
  • Xung đột quan hệ
  • Đồng nghiệp mắc lỗi do thiếu cẩn thận
  • Đối xử thô lỗ với khách hàng
  • Thiếu sự hợp tác
  • Cách thức công ty đối xử với đồng nghiệp

Để phát triển một chương trình quản lý căng thẳng hiệu quả, trước tiên cần xác định các yếu tố là trung tâm của người kiểm soát căng thẳng và xác định các phương pháp can thiệp có tác động đến các yếu tố này. Sự giải thích căng thẳng của Lazarus và Folkman tập trung vào giao dịch giữa con người với môi trường bên ngoài (được gọi là Mô hình Giao dịch). Mô hình cho rằng căng thẳng không phải là một sự căng thẳng nếu người ta không nhận thức được sự căng thẳng như là một mối đe dọa mà là một điều tích cực hay thậm chí là đầy thử thách. Ngoài ra, nếu người đó sở hữu hoặc có thể sử dụng kỹ năng đối phó thích hợp, thì căng thẳng có thể không thực sự là kết quả hoặc phát triển vì những căng thẳng. Mô hình đề xuất rằng mọi người có thể được dạy để quản lý căng thẳng của họ và đối phó với những căng thẳng của họ. Họ có thể học để thay đổi quan điểm của họ về người căng thẳng và cung cấp cho họ khả năng và sự tự tin để cải thiện cuộc sống của họ và xử lý tất cả các loại căng thẳng.

Quan điểm y tế / mô hình sức khỏe bẩm sinh

Việc Quan điểm sức khoẻ / mô hình sức khoẻ bẩm sinh của stress cũng được dựa trên ý tưởng rằng căng thẳng không nhất thiết phải theo sự hiện diện của một kẻ căng thẳng tiềm ẩn. Thay vì tập trung vào việc đánh giá của cá nhân về cái gọi là căng thẳng liên quan đến kỹ năng đối phó của chính mình (như mô hình giao dịch), mô hình thực hiện chăm sóc sức khoẻ tập trung vào bản chất của sự suy nghĩ, nói rằng đó là quá trình tư duy của một người xác định đáp ứng với các tình huống bên ngoài căng thẳng tiềm ẩn. Trong mô hình này, căng thẳng kết quả từ việc đánh giá bản thân và hoàn cảnh của một người thông qua một bộ lọc tâm thần của sự mất an ninh và tiêu cực, trong khi một cảm giác hạnh phúc kết quả từ tiếp cận thế giới với một "yên tĩnh tâm".[1][2]

Mô hình này gợi ý rằng giúp đỡ những người bị căng thẳng hiểu được bản chất của tư duy - đặc biệt là cung cấp cho họ khả năng nhận ra khi họ đang ở trong tình trạng suy nghĩ không an toàn, tách rời khỏi nó, và tiếp xúc với những cảm giác tích cực tự nhiên - sẽ làm giảm căng thẳng của họ.

Kỹ thuật

This description suggest that help the following connectors to the original of the same indones of the private consultant as well as the given when they are in in the state of an unknown, split it from it, và tiếp xúc với những cảm giác tích cực - sẽ làm giảm căng thẳng của họ.

Nhiều kỹ thuật ứng phó với cuộc sống căng thẳng mang lại. Một số cách sau đây giảm tạm thời mức stress thấp hơn bình thường để bù đắp các mô sinh học có liên quan; một số khác phải đối mặt với sự căng thẳng ở mức độ trừu tượng cao hơn:

Các kỹ thuật quản lý căng thẳng sẽ thay đổi theo mô hình triết học.

Phòng chống căng thẳng và khả năng phục hồi

Mặc dù nhiều kỹ thuật truyền thống đã được phát triển để đối phó với những hậu quả của stress, nghiên cứu đáng kể cũng đã được tiến hành về phòng ngừa stress, một chủ đề liên quan chặt chẽ đến việc xây dựng lại khả năng chịu đựng tâm lý. Một số cách tiếp cận tự giúp đỡ để ngăn ngừa căng thẳng và xây dựng khả năng phục hồi đã được phát triển, chủ yếu dựa vào lý thuyết và thực hành liệu pháp nhận thức hành vi.[3]

Đo căng thẳng

Các mức độ căng thẳng có thể được đo. Một cách là thông qua việc sử dụng các bài kiểm tra tâm lý: Thang đo Holmes và Rahe Stress [hai thang đo căng thẳng] được sử dụng để đánh giá các sự kiện trong cuộc sống căng thẳng, trong khi DASS [Trầm cảm Khó chịu] có một tỷ lệ căng thẳng dựa trên tự báo cáo mặt hàng. Những thay đổi về huyết áp và đáp ứng da mầu da cũng có thể được đo để kiểm tra mức độ căng thẳng và thay đổi mức độ căng thẳng. Một nhiệt kế kỹ thuật số có thể được sử dụng để đánh giá sự thay đổi nhiệt độ da, có thể cho biết kích hoạt của cuộc chiến chống lại bay máu rút ra từ các chi. Cortisol là hoocmon chính được tiết ra trong suốt quá trình phản ứng căng thẳng và đo cortisol từ tóc sẽ tạo ra mức căng thẳng cơ bản từ 60 đến 90 ngày của một cá nhân. Phương pháp đo căng thẳng hiện nay là phương pháp phổ biến nhất trong phòng khám.

Hiệu quả

Căng thẳng quản lý đã sinh lý và miễn dịch lợi ích.[4]

Kết quả đang quan sát bằng cách sử dụng một sự kết hợp của không-thuốc can thiệp:[5]

  • điều trị của sự giận dữ hay thù địch,
  • huấn luyện chuyên nghiệp
  • nói chuyện trị liệu (xung quanh mối quan hệ hay tồn tại vấn đề)
  • phản hồi sinh học
  • liệu pháp nhận thức cho sự lo lắng hay trầm cảm

Loại căng thẳng

Cấp căng thẳng

Căng thẳng cấp tính là thức phổ biến nhất của sự căng thẳng giữa con người trên toàn thế giới.

Cấp căng thẳng đãi với áp lực của các lai gần hoặc đối mặt với quá khứ rất gần đây. Loại này căng thẳng thường hiểu sai cho là một người tiêu cực. Trong trường hợp này trong một số hoàn cảnh, nó cũng là một điều tốt để có một số cấp căng thẳng trong cuộc sống. Chạy hay bất kỳ hình thức khác của tập thể dục được coi là một cấp căng thẳng. Một số thú vị hoặc phấn kinh nghiệm như ngồi trên một tàu lượn là một cấp căng thẳng, nhưng thường là rất thú vị. Cấp căng thẳng là một ngắn hạn căng thẳng và kết quả là, không có đủ thời gian để làm những thiệt hại mà lâu nguyên nhân gây căng thẳng.[6]

Mãn tính căng thẳng

Mãn tính căng thẳng là không giống như cấp căng thẳng. Nó có một đội hiệu trên người đó có thể trở nên rất nghiêm trọng sức khỏe nguy hiểm nếu nó vẫn tiếp tục trong một thời gian dài. Mãn tính căng thẳng có thể dẫn đến mất trí nhớ, thiệt hại công nhận không gian và tạo ra một giảm ổ đĩa ăn. Mức độ nghiêm trọng thay đổi từ người sang người và cũng sự khác biệt giới tính có thể là một yếu tố cơ bản. Phụ nữ có thể để mất thời gian dài của sự căng thẳng hơn người đàn ông mà không thấy sự giống nhau thích nghi không tốt thay đổi. Người đàn ông có thể đối phó với ngắn hơn căng thẳng thời gian tốt hơn so với phụ nữ có thể, nhưng một khi con đực đánh một ngưỡng nào đó, cơ hội của họ phát triển tinh thần vấn đề tăng đáng kể.[7]

Nơi làm việc

Căng thẳng tại nơi làm việc là một sự tương đồng khắp thế giới trong mỗi kinh doanh. Quản lý mà căng thẳng trở nên quan trọng để theo kịp suất công việc cũng như mối quan hệ với đồng nghiệp và người lao động.[8] Cho một số công nhân, thay đổi môi trường làm việc giảm làm việc căng thẳng. Làm cho môi trường ít cạnh tranh giữa các nhân viên giảm một số tiền của sự căng thẳng. Tuy nhiên, mỗi người khác nhau và một số người thích áp lực để thực hiện tốt hơn.

Lương có thể là một quan trọng mối quan tâm của nhân viên. Lương có thể ảnh hưởng đến những người làm việc vì họ có thể nhắm cho khuyến mãi và kết quả là một lương cao hơn. Điều này có thể dẫn đến mãn tính căng thẳng.

Văn hóa khác cũng đã thấy có một số các tác dụng đối phó căng thẳng vấn đề. Đông, châu Á, nhân viên có thể đối phó với một tình huống khác nhau, từ cách phương Tây Bắc Mỹ nhân viên sẽ.

Để quản lý căng thẳng ở nơi làm việc, người chủ có thể cung cấp căng thẳng quản lý chương trình[9] như trị, các chương trình truyền thông và một linh hoạt hơn lịch làm việc.[10]

Môi trường y tế

Một nghiên cứu được thực hiện trên mức độ stress ở đại học và bệnh viện tư vấn năm 1999. Hơn 500 nhân viên y tế đã tham gia vào nghiên cứu này được thực hiện bởi R. P phù thủy. Những kết quả cho thấy rằng 47% số công nhân cao điểm của họ câu hỏi cho cao, mức độ của sự căng thẳng. 27% học chung thậm chí ghi là rất chán nản. Những con số này đến một bất ngờ cho Tiến sĩ phù thủy và nó cho thấy làm thế nào đáng báo động số lượng lớn nhân viên y tế trở nên căng thẳng bởi vì công việc của họ. Quản lý mức độ stress đã không cao như thực tế học viên chính mình. Một mắt mở số liệu thống kê cho thấy rằng gần 54% số công nhân bị lo lắng khi được ở bệnh viện. Mặc dù đây là một mẫu kích thước cho bệnh viện khắp nơi trên thế giới, phù thủy cảm thấy xu hướng này là có thể khá chính xác qua phần lớn của bệnh viện.[11]

Quản lý căng thẳng chương trình

Nhiều doanh nghiệp hôm nay đã bắt đầu sử dụng quản lý căng thẳng chương trình cho nhân viên đang gặp khó khăn thích ứng với căng thẳng tại nơi làm việc hay ở nhà. Một số công ty cung cấp thiết bị đặc biệt thích nghi với căng thẳng tại nơi làm việc cho nhân viên của họ, thích màu nhật ký[12] và làm giảm căng thẳng tiện ích.[13] Nhiều người đã tràn qua căng thẳng từ nhà vào môi trường làm việc. Có một vài cách doanh nghiệp hôm nay cố gắng để làm giảm bớt sự căng thẳng vào nhân viên của họ. Một cách cá nhân sự can thiệp. Này, bắt đầu bằng cách theo dõi các căng thẳng trong các cá nhân. Sau khi theo dõi những gì gây ra căng thẳng, tiếp theo là tấn công mà căng thẳng, và cố gắng tìm ra cách để làm giảm bớt họ trong bất kỳ cách nào. Phát triển hỗ trợ xã hội là rất quan trọng trong cá nhân can thiệp được với những người khác để giúp anh đối phó đã được chứng minh là một cách hiệu quả để tránh căng thẳng. Tránh căng thẳng hoàn toàn là cách tốt nhất để thoát khỏi căng thẳng, nhưng đó là rất khó khăn để làm ở nơi làm việc. Thay đổi hành vi mô hình có thể giúp được giảm bớt sự căng thẳng đó, được đặt tại làm việc tốt.

Nhân viên chương trình trợ giúp có thể, bao gồm trong nhà tư vấn chương trình trên quản lý căng thẳng. Nó nghiên cứu có được tiến hành trên EAPs dạy cá nhân căng thẳng kiểm soát và tiêm phòng kỹ thuật như thư giãn, phản hồi sinh học, và nhận thức cơ cấu. Nghiên cứu cho thấy rằng các chương trình này có thể giảm mức độ sinh lý kích thích hợp với độ stress. Những người chủ hành vi và nhận thức căng thẳng-cứu trợ kỹ thuật báo cáo ít căng thẳng, ít rối loạn giấc ngủ và một cải thiện khả năng đối phó với nơi làm việc gây căng thẳng.[14]

Một cách để giảm căng thẳng tại nơi làm việc này bằng cách đơn giản thay đổi khối lượng công việc cho một nhân viên. Một số có thể là quá choáng ngợp rằng họ có rất nhiều việc phải được thực hiện, hoặc cũng có thể có chút công việc mà họ không biết phải làm gì với mình tại nơi làm việc. Việc cải thiện liên lạc giữa các nhân viên cũng nghe như một phương pháp đơn giản, nhưng nó rất hiệu quả để giúp giảm căng thẳng. Đôi khi làm các nhân viên cảm thấy như họ là một phần của công ty như vậy như đem lại cho họ một giọng nói trong lớn hơn tình huống cho thấy rằng bạn tin tưởng họ và giá trị ý kiến của họ. Có tất cả các nhân viên lưới, cũng cùng là một rất tố cơ bản, có thể mất đi nhiều nơi làm việc căng thẳng. Nếu nhân viên phù hợp tốt với nhau và thức ăn của nhau, thì cơ hội của rất nhiều căng thẳng là rất tối thiểu. Cuối cùng, thay đổi những phẩm chất vật lý của các nơi làm việc có thể làm giảm căng thẳng. Thay đổi mọi thứ như ánh sáng, nhiệt độ không khí, mùi hôi và công nghệ.

Can thiệp được chia thành ba bước: trường trung học, đại học. Chính đãi với loại bỏ sự căng thẳng hoàn toàn. Thứ đãi với phát hiện căng thẳng và tìm ra cách để đối phó với nó, và cải thiện căng thẳng kỹ năng quản lý. Cuối cùng, đại học đãi với phục hồi và rehabbing sự căng thẳng hoàn toàn. Ba bước thường là cách hiệu quả nhất để đối phó với sự căng thẳng không phải chỉ ở nơi làm việc, nhưng tổng thể.[15]

Ngành hàng không

Hàng không là một cao căng thẳng ngành công nghiệp, cho rằng nó đã yêu cầu một cấp cao của chính xác mọi lúc. Kinh niên căng thẳng cao cấp độ cuối cùng có thể giảm suất và thỏa hiệp an toàn.[16] Để có hiệu quả căng thẳng công cụ đo phải là cụ thể để ngành hàng không được sự độc đáo, môi trường làm việc và căng thẳng. Căng thẳng đo trong ngành hàng không tìm cách để xác định những căng thẳng tâm lý kinh nghiệm của phi công, với mục tiêu của làm những việc cần làm để phi công' đối phó căng thẳng và quản lý các kỹ năng.[17]

Để chính xác hơn đo căng thẳng, phi công' nhiều trách nhiệm đang bị phá vỡ vào "thư." Này, giúp để phân loại các khái niệm "căng thẳng" bởi cụ thể căng thẳng.[18] Ngoài ra, kể từ khi khác nhau lượng duy nhất có thể gây ra căng thẳng, phương pháp này có thể hiệu quả hơn đo mức độ căng thẳng như một cả. Căng thẳng công cụ đo sau đó có thể giúp phi công xác định căng thẳng đang có vấn đề nhất cho chúng và giúp chúng cải thiện về quản lý khối lượng công việc, lên kế hoạch nhiệm vụ, và đối phó với sự căng thẳng một cách hiệu quả hơn.

Để đánh giá công việc, một số công cụ có thể được sử dụng. Các loại công cụ đo là:

  1. Hiệu suất dựa trên các biện pháp;
  2. Chủ quan , các biện pháp, như câu hỏi đó phi công câu trả lời chính mình;
  3. Sinh lý các biện pháp, giống như đo của nhịp tim.

Thực hiện các công cụ đánh giá đòi hỏi thời gian, dụng cụ đo lường, và phần mềm để thu dữ liệu.

Hệ thống đo

Thông dụng nhất căng thẳng đo hệ thống chủ yếu là thang đánh giádựa trên. Các hệ thống này có xu hướng là phức tạp, có nhiều cấp độ với một loạt các phần, để cố gắng nắm bắt được nhiều căng thẳng hiện trong ngành hàng không. Khác nhau, hệ thống có thể được sử dụng trong khác nhau hoạt động đặc sản.

  • Sự Căng thẳng Nhận thức Quy mô (PSS) – PSS là một sử dụng rộng rãi chủ quan công cụ đo mức độ stress.[19] Nó bao gồm 10 câu hỏi, và yêu cầu người tham gia tỷ lệ trên một quy mô năm điểm, làm thế nào nhấn mạnh, họ cảm thấy một sự kiện. Tất cả 10 câu hỏi được tổng hợp để có được một tổng số điểm từ 0 tới 40. Trong ngành hàng không, ví dụ, nó đã được sử dụng với chuyến bay huấn luyện viên để đo lường làm thế nào nhấn mạnh họ cảm thấy sau khi chuyến bay huấn luyện.[20]
  • Các kỹ Năng đối Phó với hàng tồn Kho – Này kho biện pháp phi công' kỹ năng để đối phó với sự căng thẳng. Đây là một biện pháp chủ quan, yêu cầu người tham gia tỷ lệ trên một quy mô năm điểm, mức độ mà họ sử dụng tám chung kỹ năng đối phó: lạm dụngtình Cảm hỗ trợ, Cụ hỗ trợ (giúp với những thứ hữu hình, giống như đứa con, chăm sóc tài chính, hay chia sẻ nhiệm vụ), Tích cực sắp xếp lại (thay đổi suy nghĩ của một người về một sự kiện tiêu cực, và suy nghĩ về nó như một tích cực để thay thế), Tự trách mình, kế Hoạch, hài Hước và tôn Giáo. Một cá nhân của tổng điểm cho thấy mức độ mà ông ấy đang sử dụng hiệu quả, tích cực kỹ năng đối phó (thích sự hài hước và hỗ trợ tinh thần); không hiệu quả, tiêu cực kỹ năng đối phó (chất giống như lạm dụng và tự trách), và những cá nhân có thể cải thiện.
  • Chủ công Việc kỹ Thuật đánh Giá (SWAT) – SWAT là một hệ thống đánh giá được sử dụng để đo cá nhân, nhận thấy tinh thần công việc trong lúc thực hiện một nhiệm vụ, như phát triển những công cụ trong một phòng thí nghiệm, đa nhiệm nhiệm vụ máy bay, hay tiến hành phòng không.[21] SWAT kết hợp đo và rộng kỹ thuật để phát triển toàn cầu thang đánh giá.

Phi công căng thẳng hệ thống báo cáo

Sớm phi công căng thẳng báo cáo hệ thống đang thích nghi và sửa đổi từ hiện tại tâm lý câu hỏi và khảo sát.[22] các dữ liệu từ Các phi công cụ thể cuộc điều tra sau đó xử lý và phân tích thông qua một hàng không tập trung vào hệ thống hoặc quy mô. Phi công hướng câu hỏi thường được thiết kế để làm việc nghiên cứu căng thẳng hoặc nhà căng thẳng. Tự báo cáo cũng có thể được sử dụng để đo một sự kết hợp của nhà căng thẳng, làm việc căng thẳng, và khả năng nhận thức. Một nghiên cứu của Khách, Della Rocco, Schroeder và Nguyễn (2000) sử dụng Sloan và Cooper sửa đổi của Alkov bảng câu hỏi để khám phá phi công nhận thức của các mối quan hệ giữa các loại khác nhau của sự căng thẳng. Kết quả cho thấy các phi công tin đã bị suy giảm, khi nhà căng thẳng thực hơn để các môi trường làm việc. Mức độ của nhà căng thẳng rằng thực hơn để làm việc trong môi trường đã được kể và tiêu cực liên quan đến bay suất hàng, như kế hoạch, kiểm soát và độ chính xác của cuộc đổ bộ. Những câu hỏi đã có thể phản ánh phi công hồi tố nhận thức và độ chính xác của các nhận thức.[23]

Alkov, Borowsky, và Gaynor bắt đầu một 22-mục câu hỏi cho Hải quân MỸ phi công vào năm 1982 để kiểm tra giả thuyết đó không đủ căng thẳng đối phó đóng góp cho chuyến bay rủi ro. Các câu hỏi bao gồm vật có liên quan để thay đổi lối sống và cách đặc điểm. Sau khi hoàn thành các câu hỏi, các nhóm thử nghiệm được chia thành hai nhóm: "tại lỗi" với rủi ro, và "không-tại lỗi" trong một tai nạn. Sau đó, câu hỏi từ hai nhóm này được phân tích để kiểm tra sự khác biệt.[24] Một nghiên cứu của Anh, thương mại phi công hãng hàng không, thực hiện bởi Sloan và Cooper (1986), khảo sát 1.000 các thành viên phi công từ các Anh Phi công Hãng hàng không Hiệp hội (BALPA). Họ sử dụng một phiên bản của Alkov, Borowsky, và Gaynor là bảng câu hỏi để thu dữ liệu trên phi công nhận thức của các mối quan hệ giữa căng thẳng và hiệu quả. Là một chủ quan biện pháp này nghiên cứu dữ liệu đã được dựa trên phi công nhận thức, và như vậy dựa vào cách chính xác họ nhớ lại kinh nghiệm trong quá khứ mối quan hệ của họ để căng thẳng. Mặc dù dựa trên nhận thức chủ quan và những kỷ niệm, các nghiên cứu cho thấy rằng phi công báo cáo là đáng chú ý.

Beck Trầm cảm Kho (LỄ) là một quy mô sử dụng vào nhiều ngành công nghiệp, bao gồm cả sức khỏe tâm thần ngành nghề, để màn hình cho trầm cảm triệu chứng.[25]

Ngày và câu lạc bộ mười bảy (năm 1997) sử dụng các THUỘC để điều tra một nhóm của 57 Không Quân MỸ phi công chiến đấu người đã bay chiến đấu. thích ứng của LỄ đến hàng không lĩnh vực đã có vấn đề. Tuy nhiên, các nghiên cứu cho thấy một số kết quả bất ngờ. Kết quả cho thấy rằng 89% của các phi công báo cáo mất ngủ; 86% báo cáo khó chịu; 63%, bất mãn; 38%, tội lỗi và 35%, giảm ham muốn tình dục. 50% của hai phi đội và 33% của một phi đội ghi trên 9 trên LỄ, cho thấy ít nhất thấp mức độ trầm cảm. Như vậy đo có thể là khó để giải thích chính xác.Bản mẫu:Why?

Tài liệu tham khảo

  1. ^ Mills, R.C. (1995). Realizing Mental Health: Toward a new Psychology of Resiliency. Sulberger & Graham Publishing, Ltd. ISBN 0-945819-78-10-945819-78-1
  2. ^ Sedgeman, J.A. (2005). Health Realization/Innate Health: Can a quiet mind and a positive feeling state be accessible over the lifespan without stress-relief techniques? Med. Sci. Monitor 11(12) HY47-52. [1]
  3. ^ Robertson, D (2012). Build your Resilience. London: Hodder. ISBN 978-1444168716.
  4. ^ Bower, J. E.; Segerstrom, S.C. (2004). “Stress management, finding benefit, and immune function: positive mechanisms for intervention effects on physiology”. Journal of Psychosomatic Research. 56 (1): 9–11. doi:10.1016/S0022-3999(03)00120-X. PMID 14987958. Đã bỏ qua tham số không rõ |lastauthoramp= (gợi ý |name-list-style=) (trợ giúp)
  5. ^ Wolfgang Linden; Joseph W. Lenz; Andrea H. Con (2001). “Individualized Stress Management for Primary Hypertension: A Randomized Trial”. Arch Intern Med. 161 (8): 1071–1080. doi:10.1001/archinte.161.8.1071. PMID 11322841.
  6. ^ McGonagle, Katherine; Ronald Kessler (tháng 10 năm 1990). “Chronic Stress, Acute Stress, Depressive Symptoms”. American Journal of Community Psychology. 18 (5): 681–706. doi:10.1007/BF00931237.
  7. ^ Bowman, Rachel; Beck, Kevin D; Luine, Victoria N (tháng 1 năm 2003). “Chronic Stress Effects on Memory: Sex differences in performance”. Hormones and Behavior. 43 (1): 48–59. doi:10.1016/S0018-506X(02)00022-3.
  8. ^ “Archived copy”. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2016. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết)
  9. ^ http://www.ofai.co.uk/office-stress-management.html
  10. ^ Nordic Labour Journal: Avoiding change-induced stress in the workplace
  11. ^ Caplan, R.P (tháng 11 năm 1994). “Stress, Anxiety, and Depression in Hospital Consultants, General Practitioners, and Senior Health Managers”. BMJ. 309 (6964): 1261–1269. doi:10.1136/bmj.309.6964.1261.
  12. ^ “Anti stress diary with adult coloring pages”.
  13. ^ “20 Gadgets to Help You Fight Stress - Hongkiat Magazine”.
  14. ^ Schultz&Schultz, D (2010). Psychology and work today. New York: Prentice Hall. tr. 374.
  15. ^ Hardy, Sally (1998). Occupational Stress: Personal & Professional Approaches. United Kingdom: Stanley Thornes ltd. tr. 18–43.
  16. ^ Woldring, Michael (15 tháng 3 năm 1996). “Human Factors Module: Stress” (PDF). European organisation for the safety of air navigation. 1: 3–16.
  17. ^ Lehrer, P; Karavidas, M; Lu, SE; Vaschillo, E; Vaschillo, B; Cheng, A (tháng 5 năm 2010). “Cardiac data increase association between self-report and both expert ratings of task load and task performance in flight simulator tasks: An exploratory study”. International Journal of Psychophysiology. 76 (2): 80–7. doi:10.1016/j.ijpsycho.2010.02.006. PMID 20172000.
  18. ^ Biondi, M; Picardi, A (1999). “Psychological stress and neuroendocrine function in humans: The last two decades of research”. Psychotherapy and Psychosomatics. 68 (3): 114–50. doi:10.1159/000012323. PMID 10224513.
  19. ^ Langan-Fox, J; Sankey, M; Canty, JM (tháng 10 năm 2009). “Human factors measurement for future air traffic control systems”. Human Factors. 51 (5): 595–637. doi:10.1177/0018720809355278. PMID 20196289.
  20. ^ Kirschner, J; Young, J; Fanjoy, R (2014). “Stress and coping as a function of experience level in collegiate flight students”. Journal of Aviation Technology and Engineering. 3 (2): 14–19. doi:10.7771/2159-6670.1092.
  21. ^ Corwin, W.H. (1 tháng 4 năm 1992). “In-flight and post flight assessment of pilot workload in commercial transport aircraft using the subjective workload assessment technique”. The International Journal of Aviation Psychology. 2 (2): 77–93. doi:10.1207/s15327108ijap0202_1.
  22. ^ Young, James (tháng 12 năm 2008). The Effects of Life-Stress on Pilot Performance (PDF) (Bản báo cáo). NASA Ames Research Center. tr. 1–7.
  23. ^ Muller, Ronald; Andreas Wittmer; Christopher Drax biên tập (2014). Aviation Risk and Safety Management: Methods and Applications In Aviation Organizations. Springer International. ISBN 978-3-319-02779-1.
  24. ^ O'Connor, Paul E.; Cohn, Joseph V. biên tập (2010). Human Performance Enhancement in High-Risk Environments: Insights, Developments, and Future Directions from Military Research. ABC-CLIO. ISBN 978-0-313-35983-5.
  25. ^ Barralabc, C; Rodríguez-Cintasb, L; Martínez-Lunaabc, Nieves; Bachillerabc, D; và đồng nghiệp (13 tháng 11 năm 2014). “Reliability of the Beck Depression Inventory in opiate-dependent patients”. Journal of Substance Abuse: 1–6. doi:10.3109/14659891.2014.980859.