Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Anjali Mudra”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Thêm liên kết dưới Liên kết ngoài hoặc Tham khảo Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động
Dòng 8: Dòng 8:
Như một cử chỉ, nó được sử dụng rộng rãi như một dấu hiệu tôn trọng hoặc một lời chào thầm lặng ở [[Ấn Độ]], [[Sri Lanka]], [[Nepal]], [[Bhutan]], [[Miến Điện]], [[Thái Lan]], [[Lào]], [[Campuchia]], [[Indonesia]] và [[Malaysia]]. Nó cũng được sử dụng trong số các [[Phật giáo ở Đông Á|Phật tử Đông Á]], người theo tôn giáo Trung Quốc, Thần đạo và những người theo các truyền thống châu Á tương tự. Cử chỉ này được sử dụng như một phần của lời cầu nguyện hoặc thờ cúng trong nhiều [[tôn giáo khởi nguồn từ Ấn Độ]] và các [[tôn giáo phương Đông]] khác.
Như một cử chỉ, nó được sử dụng rộng rãi như một dấu hiệu tôn trọng hoặc một lời chào thầm lặng ở [[Ấn Độ]], [[Sri Lanka]], [[Nepal]], [[Bhutan]], [[Miến Điện]], [[Thái Lan]], [[Lào]], [[Campuchia]], [[Indonesia]] và [[Malaysia]]. Nó cũng được sử dụng trong số các [[Phật giáo ở Đông Á|Phật tử Đông Á]], người theo tôn giáo Trung Quốc, Thần đạo và những người theo các truyền thống châu Á tương tự. Cử chỉ này được sử dụng như một phần của lời cầu nguyện hoặc thờ cúng trong nhiều [[tôn giáo khởi nguồn từ Ấn Độ]] và các [[tôn giáo phương Đông]] khác.


Trong điêu khắc, ấn Anjali phổ biến ở các lối vào và trong các tác phẩm phù điêu của các ngôi đền lịch sử như Lingobhavamurti của [[giáo phái Shaiva]]. Ấn Anjali khác với Namaste ở chỗ là một cử chỉ phi ngôn ngữ, trong khi Namaste có thể được nói có hoặc không có bất kỳ cử chỉ nào. Theo Bhaumik và Govil, ấn Anjali và ấn Namaskara rất giống nhau nhưng có những khác biệt nhỏ. Mặt sau của ngón cái trong ấn Anjali hướng về phía ngực và vuông góc với các ngón khác, trong khi ngón cái trong ấn Namaskara thẳng hàng với các ngón khác.
Trong điêu khắc, ấn Anjali phổ biến ở các lối vào và trong các tác phẩm phù điêu của các ngôi đền lịch sử như Lingobhavamurti của [[giáo phái Shaiva]].<ref>{{cite journal|author = Douglas Barrett| title= An Early Cola Lingodbhavamurti|journal = The British Museum Quarterly| volume= 28| number= 1/2 (Summer) |year= 1964| pages= 32–39|jstor=4422848}}</ref><ref>{{cite journal|title=Indian Sculpture Newly Acquired|author= Stella Kramrisch| journal=Philadelphia Museum of Art Bulletin (Winter)|year= 1957|volume= 52|number= 252| pages=30-38 with Fig 2 and 3|doi= 10.2307/3795036|jstor=379036}}</ref> Ấn Anjali khác với Namaste ở chỗ là một cử chỉ phi ngôn ngữ, trong khi Namaste có thể được nói có hoặc không có bất kỳ cử chỉ nào. Theo Bhaumik và Govil, ấn Anjali và [[Namaste|ấn Namaskara]] rất giống nhau nhưng có những khác biệt nhỏ. Mặt sau của ngón cái trong ấn Anjali hướng về phía ngực và vuông góc với các ngón khác, trong khi ngón cái trong ấn Namaskara thẳng hàng với các ngón khác.<ref name="BhaumikGovil2020">{{cite book | last1=Bhaumik | first1=Gopa | last2=Govil | first2=Mahesh Chandra | title=Communications in Computer and Information Science | chapter=Buddhist Hasta Mudra Recognition Using Morphological Features | publisher=Springer Singapore | publication-place=Singapore | year=2020 | isbn=978-981-15-6314-0 | issn=1865-0929 | doi=10.1007/978-981-15-6315-7_29 | pages=356–364| s2cid=225349190 }}</ref>


== Tham khảo ==
== Tham khảo ==

Phiên bản lúc 04:35, ngày 8 tháng 4 năm 2024

Tượng với bàn tay ở tư thế ấn Anjali phổ biến.
Một bức tượng Đại Thế Chí Bồ Tát của Nhật Bản đang thực hành ấn Anjali.

Anjali Mudra hay ấn Anjali (tiếng Phạn: अञ्जलि मुद्रा Añjali Mudrā), gọi ngắn gọn là vái, là một cử chỉ tay chủ yếu gắn liền với các tôn giáo khởi nguồn từ Ấn Độ, phổ biến khắp châu Á và xa hơn nữa. Nó là một phần của các tư thế múa cổ điển Ấn Độ như Bharata Natyam,[1] thực hành yoga,[2] và là một phần của lời chào Namaste. Trong số các nghệ thuật trình diễn, ấn Anjali là một hình thức giao tiếp trực quan, không lời với khán giả. Đây là một trong 24 ấn samyukta của nghệ thuật cổ điển Ấn Độ.[1] Có một số dạng của ấn Anjali chẳng hạn như brahmanjali.[3]

Động tác này được kết hợp trong nhiều tư thế yoga.[2] Tư thế yoga hiện đại pranamasana (tiếng Phạn: प्रणामासन praṇāmāsana) bao gồm việc đứng thẳng, hai tay ở tư thế ấn Anjali.

Như một cử chỉ, nó được sử dụng rộng rãi như một dấu hiệu tôn trọng hoặc một lời chào thầm lặng ở Ấn ĐộSri LankaNepalBhutanMiến ĐiệnThái LanLàoCampuchiaIndonesia và Malaysia. Nó cũng được sử dụng trong số các Phật tử Đông Á, người theo tôn giáo Trung Quốc, Thần đạo và những người theo các truyền thống châu Á tương tự. Cử chỉ này được sử dụng như một phần của lời cầu nguyện hoặc thờ cúng trong nhiều tôn giáo khởi nguồn từ Ấn Độ và các tôn giáo phương Đông khác.

Trong điêu khắc, ấn Anjali phổ biến ở các lối vào và trong các tác phẩm phù điêu của các ngôi đền lịch sử như Lingobhavamurti của giáo phái Shaiva.[4][5] Ấn Anjali khác với Namaste ở chỗ là một cử chỉ phi ngôn ngữ, trong khi Namaste có thể được nói có hoặc không có bất kỳ cử chỉ nào. Theo Bhaumik và Govil, ấn Anjali và ấn Namaskara rất giống nhau nhưng có những khác biệt nhỏ. Mặt sau của ngón cái trong ấn Anjali hướng về phía ngực và vuông góc với các ngón khác, trong khi ngón cái trong ấn Namaskara thẳng hàng với các ngón khác.[6]

Tham khảo

  1. ^ a b Anami, Basavaraj S.; Bhandage, Venkatesh A. (4 tháng 6 năm 2018). “A vertical-horizontal-intersections feature based method for identification of bharatanatyam double hand mudra images”. Multimedia Tools and Applications. Springer Science. 77 (23): 31021–31040. doi:10.1007/s11042-018-6223-y. ISSN 1380-7501. S2CID 254827995.
  2. ^ a b C Carroll; R Carroll (2012). Mudras of India: A Comprehensive Guide to the Hand Gestures of Yoga and Indian Dance. SD Publishers. tr. 44–46. ISBN 978-0-85701-067-4.
  3. ^ Jan Gonda (1980). Handbuch Der Orientalistik: Indien. Zweite Abteilung. Brill Academic. tr. 65–67, 126–130. ISBN 9789004062108.
  4. ^ Douglas Barrett (1964). “An Early Cola Lingodbhavamurti”. The British Museum Quarterly. 28 (1/2 (Summer)): 32–39. JSTOR 4422848.
  5. ^ Stella Kramrisch (1957). “Indian Sculpture Newly Acquired”. Philadelphia Museum of Art Bulletin (Winter). 52 (252): 30-38 with Fig 2 and 3. doi:10.2307/3795036. JSTOR 379036.
  6. ^ Bhaumik, Gopa; Govil, Mahesh Chandra (2020). “Buddhist Hasta Mudra Recognition Using Morphological Features”. Communications in Computer and Information Science. Singapore: Springer Singapore. tr. 356–364. doi:10.1007/978-981-15-6315-7_29. ISBN 978-981-15-6314-0. ISSN 1865-0929. S2CID 225349190.