Bệnh công chúa

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bệnh công chúa, còn được gọi là hội chứng công chúa hoặc bệnh nữ hoàng (tiếng Trung: 公主病; bính âm: gōng zhǔ bìng; Yale Quảng Đông: gūng jyú behng; tiếng Triều Tiên: 공주병), là một cách chơi chữ mới được sử dụng thông dụng ở Đông Á để mô tả hành động ái kỷ, làm cao, chảnh, điệu, ham vật chất ở phụ nữ, hoặc hành vi "công chúa".[1][2] Ngược lại nhưng ít phổ biến hơn, những người đàn ông có triển vọng tương tự có thể được mô tả là mắc bệnh "hoàng tử", "công tử bột".[3]

Người ta suy đoán rằng thuật ngữ này bắt nguồn từ sự nổi lên của bốn con hổ trên khắp châu Á, trong đó tăng trưởng kinh tế nhanh chóng có thể góp phần vào sự gia tăng tương ứng về thái độ của người tiêu dùng hoặc vật chất và tầng lớp thượng lưu đầu tư vào con cái họ, những người sau đó có thể quen với của cải vật chất và ỷ lại vào người khác.[3][4]

Nguyên nhân[sửa | sửa mã nguồn]

Trung Quốc đại lục, Hồng KôngMa Cao, Đài Loan, tỷ lệ sinh thấp[5] có nghĩa là các gia đình thường chỉ có con là trọng tâm duy nhất của năng lượng của cha mẹ họ. Ở Trung Quốc đại lục, hiện tượng kết quả, thường được quy cho chính sách một con trước đây. Vì sự chiều chuộng của cha mẹ và người giúp việc gia đình, cho phép cha mẹ tầng lớp trung lưu làm việc, có thể góp phần làm cho con cái họ được chiều chuộng.[6] Khoảng cách thu nhập ngày càng lớn ở Hồng Kông, cùng với những lo ngại về dân chủ và bất bình đẳng xã hội, cũng phản ánh thái độ nhận thức của các tầng lớp 'tinh hoa'.[7][8]

Hơn nữa, người Đông Á rất coi trọng thành tích cá nhân và học tập.[9] Vì lý do đó, phụ huynh có thể gây áp lực học tập lớn cho cả trẻ em và giáo viên, quản lý chặt sự nghiệp học tập của con em mình để đạt điểm cao hơn.[10][11] Một số gợi ý rằng điều này dẫn đến sự phụ thuộc hoặc thiếu trách nhiệm.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “HK princesses rattle local hikikomori”. South China Morning Post. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2016.
  2. ^ myhongkonghusband, Lina (ngày 12 tháng 10 năm 2013). “公主病 – on princess syndrome and tough relationships”. My Hong Kong Husband. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2016.
  3. ^ a b “THE PRINCESS SYNDROME: EMERGING CHANGES IN CHINESE SOCIETY « USI – Blog”. usiblog.in. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2016.
  4. ^ Empiricism and analytical tools for 21 Century applied linguistics: selected papers from the XXIX International Conference of the Spanish Association of Applied Linguistics (AESLA). Ediciones Universidad de Salamanca. 2012. tr. 451. ISBN 9788490121542.
  5. ^ Speed, Barbara (ngày 30 tháng 9 năm 2014). “Hong Kong's low birth rate blamed on women's "sexual problems". CityMetric Horizons. CityMetric. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2014.
  6. ^ Wong, Bill. “Monster/Helicopter Parents and Their Children's Independence”. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2013.
  7. ^ Carroll, Toby (ngày 28 tháng 7 năm 2014). “Hong Kong's pro-democracy movement is about inequality. The elite knows it”. the Guardian. theguardian.com. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2014.
  8. ^ Hu, Fox; Yun, Michelle (ngày 30 tháng 9 năm 2013). “Hong Kong Poverty Line Shows Wealth Gap With One in Five Poor”. Bloomberg. Bloomberg. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2014.
  9. ^ “2009–2010 Hong Kong Policy Address”. Hong Kong SAR Government. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2013.
  10. ^ Tomohiro, Osaki (ngày 27 tháng 1 năm 2011). “Exasperated teacher takes on Japan's 'monster parents'. CNN Travel. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2013.
  11. ^ Chua, Amy (ngày 8 tháng 1 năm 2011). “Why Chinese Mothers Are Superior”. Wall Street Journal. ISSN 0099-9660. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2016.