Godeliève Mukasarasi

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Godeliève Mukasarasi
Sinh1959
Gitarama, Muhanga, Rwanda
Quốc tịchRwanda
Nghề nghiệpCông tác xã hội
Nổi tiếng vìLàm việc với những người sống sót sau cuộc diệt chủng
Giải thưởngGiải thưởng Tự do John Humphrey (2004)

Godeliève Mukasarasi (sinh năm 1959) là một nhân viên xã hội người Rwanda, người sống sót sau cuộc diệt chủng và là nhà hoạt động phát triển nông thôn.[1] Vào năm 2018, bà được trao Giải quốc tế cho Phụ nữ dũng cảm.

Bối cảnh và hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Mukasarasi được sinh ra ở Gitarama, Muhanga, nơi bà tiếp tục làm việc như một nhân viên xã hội.[1] Sau cuộc diệt chủng Rwandan năm 1994, bà thành lập một nhóm gọi là SEVOTA, một nhóm hỗ trợ giúp đỡ những người góa phụ và trẻ mồ côi để tiếp tục các quyền kinh tế xã hội của họ.[1] Tổ chức nhấn mạnh việc tạo ra "không gian an toàn" cho các cuộc đối thoại sống sót và giải trí thể chất cho trẻ em, và có trụ sở tại Taba.[1][2]

Năm 1996, chồng bà, Emmanuel Rudasingwa, và con gái đã bị giết bởi một nhóm vũ trang.[1] Trong lời khai của mình cho các nhà điều tra nhân quyền, Mukasarasi đã gán cuộc tấn công cho Hutus gần đây đã trở về từ Zaire, để trả thù cho những cuộc trò chuyện của chồng bà với đại diện của Tòa án Hình sự Quốc tế Rwanda.[3] Mukasarasi bị đe dọa, nhưng bà tìm thấy bốn người sẵn sàng làm chứng. Bà được trao Giải quốc tế cho Phụ nữ dũng cảm vào năm 2018 cho công việc này và công việc khác.[4]

Sự công nhận[sửa | sửa mã nguồn]

Công việc của Mukasarasi đã giành được các giải thưởng quốc gia và quốc tế khác. Vào tháng 10 năm 1996, bà được trao giải thưởng sáng tạo của phụ nữ trong đời sống nông thôn từ Hội nghị thượng đỉnh phụ nữ thế giới,[5] và bà cũng nhận được giải thưởng Nzambazamariya Vénéranda, một giải thưởng Rwandan cho một cá nhân quảng bá hình ảnh tích cực cho phụ nữ. Năm 2004, bà được nhận giải thưởng Tự do John Humphrey của Trung tâm Quốc tế về Nhân quyền và Phát triển Dân chủ, với khoản tiền C$30,000 và cho phép Mukasarasi tham gia một tour diễn nói về các thành phố của Canada để thúc đẩy công việc của bà.[6] Kathleen Mahoney, chủ tịch hội đồng của Trung tâm, phát biểu trong một thông cáo báo chí rằng "thông qua sự can đảm, sự nhiệt tình và cam kết vững chắc của bà ấy, Mukasarasi đã thành công trong việc đạt được sự tin tưởng của nạn nhân cưỡng hiếpbạo lực tình dục, đặc biệt là phụ nữ nhiễm HIV/AIDS, cũng như phá vỡ sự im lặng và giúp đỡ những phụ nữ này có được công lý."[1]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f “Godeliève Mukasarasi (Rwanda)”. International Centre for Human Rights and Democratic Development. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2011.
  2. ^ “Visions of Rwanda Photo Project”. United Nations. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2011.
  3. ^ Connie Walsh (tháng 7 năm 1997). “WITNESS PROTECTION, GENDER AND THE ICTR”. Coalition for Women's Human Rights in Conflict Situations. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2011.
  4. ^ “The 2018 International Women of Courage Award Recipients | U.S. Embassy in Chad”. U.S. Embassy in Chad (bằng tiếng Anh). 26 tháng 3 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2018.
  5. ^ “WWSF Prize for Women's Creativity in Rural Life ©” (PDF). Women's World Summit Foundation. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 22 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2011.
  6. ^ “John Humphrey Award”. International Centre for Human Rights and Democratic Development. 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2011.