HMS Redmill (K554)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi DE-89 (chưa đặt tên)
Đặt hàng 1942 [1]
Xưởng đóng tàu Bethlehem-Hingham Steel Shipyard, Hingham, Massachusetts
Đặt lườn 14 tháng 7, 1943
Hạ thủy 2 tháng 10, 1943
Người đỡ đầu bà James E. Hamilton
Ngừng hoạt động Chuyển giao cho Anh Quốc
Xóa đăng bạ 7 tháng 2, 1947
Tái đăng bạ Được Anh hoàn trả, 20 tháng 1, 1947
Số phận
Lịch sử
Anh Quốc
Tên gọi HMS Redmill (K554)
Đặt tên theo Robert Redmill [2][4]
Nhập biên chế 30 tháng 11, 1943
Số phận
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Phân lớp Buckley
Trọng tải choán nước
  • 1.400 tấn Anh (1.422 t) (tiêu chuẩn)
  • 1.740 tấn Anh (1.768 t) (đầy tải)
Chiều dài 306 ft (93 m)
Sườn ngang 37 ft (11 m)
Mớn nước
  • 9 ft 6 in (2,90 m) (tiêu chuẩn)
  • 11 ft 3 in (3,43 m) (đầy tải)
Động cơ đẩy
  • 2 × nồi hơi ống nước Foster-Wheeler kiểu Express "D"
  • 2 × turbine hơi nước General Electric công suất 13.500 mã lực (10.100 kW), dẫn động hai máy phát điện công suất 9.200 kilôwatt (12.300 hp)
  • 2 × động cơ điện công suất trục 12.000 shp (8,9 MW)
  • 2 × chân vịt ba cánh mangan-đồng nguyên khối đường kính 8 ft 6 in (2,59 m)
Tốc độ 23 hải lý trên giờ (43 km/h; 26 mph)
Tầm xa
  • 3.700 nmi (6.900 km) ở tốc độ 15 kn (28 km/h; 17 mph)
  • 6.000 nmi (11.000 km) ở tốc độ 12 kn (22 km/h; 14 mph)
Sức chứa 350 tấn dầu đốt
Thủy thủ đoàn tối đa 15 sĩ quan, 198 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • Radar dò tìm mặt biển Kiểu SL trên cột ăn-ten
  • Radar dò tìm không trung Kiểu SA (chỉ trên một số chiếc)
  • Sonar Kiểu 128D hay Kiểu 144 trong vòm thu vào được.
  • Ăn-ten định vị MF trước cầu tàu
  • Ăn-ten định vị cao tần Kiểu FH 4 trên đỉnh cột ăn-ten chính
Vũ khí

HMS Redmill (K554) là một tàu frigate lớp Captain của Hải quân Hoàng gia Anh hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó nguyên được Hoa Kỳ chế tạo như chiếc DE-89 (chưa đặt tên), một tàu hộ tống khu trục lớp Buckley, và chuyển giao cho Anh Quốc theo Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Tên nó được đặt theo Đại tá Hải quân Robert Redmill (khoảng 1765-1819), hạm trưởng chiếc HMS Polyphemus (1782) và đã từng tham gia các cuộc Chiến tranh Cách mạng PhápChiến tranh Napoleon.[2][4] Nó đã phục vụ trong chiến tranh cho đến khi bị hư hại nặng do trúng ngư lôi phóng từ tàu ngầm U-1105 tại Đại Tây Dương vào ngày 27 tháng 4, 1945. Vẫn nổi được và được kéo quay trở về cảng, con tàu được xem như một tổn thất toàn bộ, được hoàn trả cho Hoa Kỳ trên danh nghĩa và bị bán để tháo dỡ vào năm 1947.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Buckley là một trong số sáu lớp tàu hộ tống khu trục được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo nhằm đáp ứng nhu cầu hộ tống vận tải trong Thế Chiến II, sau khi Hoa Kỳ chính thức tham chiến vào cuối năm 1941. Chúng hầu như tương tự nhau, chỉ với những khác biệt về hệ thống động lực và vũ khí trang bị. Động cơ của phân lớp Backley bao gồm hai turbine hơi nước General Electric để dẫn động hai máy phát điện vận hành hai trục chân vịt, và dàn vũ khí chính bao gồm 3 khẩu pháo pháo 3 in (76 mm)/50 cal.[5][6]

Những chiếc phân lớp Buckley (TE) có chiều dài ở mực nước 300 ft (91 m) và chiều dài chung 306 ft (93 m); mạn tàu rộng 37 ft 1 in (11,30 m) và độ sâu mớn nước khi đầy tải là 11 ft 3 in (3,43 m). Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.430 tấn Anh (1.450 t); và lên đến 1.823 tấn Anh (1.852 t) khi đầy tải.[7] Hệ thống động lực bao gồm hai nồi hơi và hai turbine hơi nước General Electric công suất 13.500 mã lực (10.100 kW), dẫn động hai máy phát điện công suất 9.200 kilôwatt (12.300 hp) để vận hành hai trục chân vịt; [5][6] công suất 12.000 hp (8.900 kW) cho phép đạt được tốc độ tối đa 23 kn (26 mph; 43 km/h). Con tàu mang theo 359 tấn Anh (365 t) dầu đốt, cho phép di chuyển đến 6.000 nmi (6.900 mi; 11.000 km) ở vận tốc đường trường 12 kn (14 mph; 22 km/h).[7]

Vũ khí trang bị bao gồm pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên ba tháp pháo nòng đơn đa dụng (có thể đối hạm hoặc phòng không), gồm hai khẩu phía mũi và một khẩu phía đuôi. Vũ khí phòng không tầm gần bao gồm hai pháo Bofors 40 mm và tám pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Con tàu có ba ống phóng ngư lôi Mark 15 21 inch (533 mm). Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và bốn máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[7][8] Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 200 sĩ quan và thủy thủ.[7]

Redmill được đặt lườn như là chiếc DE-89 (chưa đặt tên) tại xưởng tàu của hãng Bethlehem-Hingham Steel ShipyardHingham, Massachusetts vào ngày 14 tháng 7, 1943, được hạ thủy vào ngày 2 tháng 10, 1943,[1][2][3][4] và được đỡ đầu bởi bà James E. Hamilton, phu nhân Đại tá Hải quân James E. Hamilton thuộc Văn phòng Tàu chiến Hải quân.[2][3] Con tàu được chuyển giao cho Anh Quốc và nhập biên chế cùng Hải quân Anh như là chiếc HMS Redmil (K554) vào ngày 30 tháng 11, 1943[1][2][3][4] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân John Richard Alured Denne.[1]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hoàn tất việc trang bị và chạy thử máy, Redmill vượt Đại Tây Dương để gia nhập Đội hộ tống 21 tại Belfast, Bắc Ireland, con tàu được cải biến tại cầu tàu Pollock, Belfast trong tháng 1tháng 2 cho phù hợp với hoạt động của Hải quân Anh. Nó cùng với toàn bộ Đội hộ tống 21 được tạm thời phục vụ dưới quyền Bộ chỉ huy Nore trong sáu tháng, chủ yếu làm nhiệm vụ hộ tống vận tải ven biển dọc bờ Đông nước Anh và dọc eo biển Manche ra Đại Tây Dương.[9]

Trong Chiến dịch Neptune, hoạt động hải quân trong khuôn khổ cuộc đổ bộ Normandy, Redmill đảm nhiệm hộ tống cho Roberts (1916) đi đến vị trí bắn phá ngoài khơi bãi đổ bộ, và tiếp tục tuần tra chống tàu ngầm chung quanh chiếc tàu monitor này. Nó trở thành chiếc tàu frigate lớp Captain duy nhất trực tiếp bắn phá mục tiêu đối phương trong cuộc đổ bộ này.[9]

Sang tháng 10, Redmill cùng với các tàu frigate chị em Byron (K508), Conn (K509), Deane (K551), Fitzroy (K553)Rupert (K561) đi đến Belfast để tham gia thành phần hộ tống cho Đoàn tàu JW 61 đi sang Murmansk, Liên Xô. Đoàn tàu khởi hành từ vịnh Bangor vào ngày 14 tháng 10, và Đoàn tàu RA 61 kết thúc hành trình khứ hồi khi về đến Belfast lúc 09 giờ 30 phút ngày 10 tháng 11.[9]

Vào đầu năm 1945, tàu ngầm U-boat Đức hoạt động tích cực tại khu vực biển Ireland, nên Đội hộ tống 21 cũng được phát đi hoạt động tuần tra chống tàu ngầm tại khu vực này. Vào ngày 27 tháng 3, 1945, Redmill đã hoạt động phối hợp với các tàu frigate ByronFitzroy để tấn công bằng mìn sâu và đánh chìm chiếc U-boat U-722 ngoài khơi Hebrides, Scotland, ở tọa độ 57°09′B 06°55′T / 57,15°B 6,917°T / 57.150; -6.917. Toàn bộ 44 thành viên thủy thủ đoàn của U-722 đều tử trận.[9][1][10]

Đến ngày 27 tháng 4, tàu ngầm Đức U-1105 phát hiện ba tàu frigate Anh tại vùng biển Bắc Đại Tây Dương cách 25 nmi (46 km) về phía Tây Ireland, và đã bắn ba quả ngư lôi dò âm G7es (T5) về phía họ. Năm mươi giây sau đó, một quả đánh trúng Redmill tại tọa độ 54°23′B 10°36′T / 54,383°B 10,6°T / 54.383; -10.600, tiếp nối vài giây sau đó bởi một quả thứ hai, làm thổi tung một phần đuôi tàu dài khoảng 60 ft (18 m). U-1105 đã lẫn tránh được cuộc phản công sau đó. Được tàu frigate chị em Rupert trợ giúp, Redmill tiếp tục nổi được và được kéo về Lisahally, Bắc Ireland.[1][11]

Không thể sửa chữa một cách hiệu quả kinh tế, Redmill được xem như là một tổn thất toàn bộ. Con tàu được hoàn trả trên danh nghĩa cho Hoa Kỳ vào ngày 20 tháng 1, 1947,[3] nhằm giảm bớt chi phí mà Anh phải trả cho Hoa Kỳ trong Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease). Con tàu được bán cho hãng Athens Piraeus Electricity Company, Ltd. tại Athens, Hy Lạp để tháo dỡ vào ngày 30 tháng 1, 1947[2] hoặc 4 tháng 2, 1947,[3] và nó được rút tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 7 tháng 2, 1947.[3]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g Helgason, Guðmundur. “HMS Redmill (K 554)”. uboat.net. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2021.
  2. ^ a b c d e f g Naval Historical Center. Redmil (DE-89). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  3. ^ a b c d e f g h Yarnall, Paul R (ngày 26 tháng 7 năm 2020). “Redmill (DE 89)/HMS Redmill (K 554)”. NavSource.org. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2021.
  4. ^ a b c d Tynan, Roy (2003). “HMS Redmill K554 (DE 89)”. Captain Class Frigate Association. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2021.
  5. ^ a b Whitley 2000, tr. 309–310.
  6. ^ a b Friedman 1982, tr. 143–144, 146, 148–149.
  7. ^ a b c d Whitley 2000, tr. 151.
  8. ^ Elliott 1977, tr. 259.
  9. ^ a b c d Tynan, Roy (2003). “Operation of the 21st Escort Group”. Captain Class Frigate Association. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2021.
  10. ^ Helgason, Guðmundur. “U-722”. uboat.net. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2021.
  11. ^ Helgason, Guðmundur. “Ships Hit By U-boats: HMS Redmill (K 554)”. uboat.net. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2021.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]