USS Enright (DE-216)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Enright (DE-216)
Đặt tên theo Robert Paul Francis Enright
Đặt hàng 1942
Xưởng đóng tàu Xưởng hải quân Philadelphia, Philadelphia, Pennsylvania
Đặt lườn 22 tháng 2, 1943
Hạ thủy 29 tháng 5, 1943
Nhập biên chế 21 tháng 9, 1943
Xuất biên chế 21 tháng 6, 1946
Xếp lớp lại APD-66, 21 tháng 1, 1945
Xóa đăng bạ 31 tháng 3, 1978
Danh hiệu và phong tặng 1 × Ngôi sao Chiến trận
Số phận Được chuyển cho Ecuador, 14 tháng 7, 1967
Lịch sử
Ecuador
Tên gọi BAE 25 de Julio (E-12)
Đặt tên theo 25 tháng 7, 1851 (Ngày Giải phóng tại Ecuador)
Trưng dụng 14 tháng 7, 1967
Nhập biên chế 14 tháng 7, 1967
Đổi tên Morán Valverde (D-01), 1975
Số phận Tháo dỡ, 1989
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp Buckley
Trọng tải choán nước
  • 1.400 tấn Anh (1.422 t) (tiêu chuẩn)
  • 1.740 tấn Anh (1.768 t) (đầy tải)
Chiều dài 306 ft (93 m)
Sườn ngang 37 ft (11 m)
Mớn nước
  • 9 ft 6 in (2,90 m) (tiêu chuẩn)
  • 11 ft 3 in (3,43 m) (đầy tải)
Động cơ đẩy
  • 2 × nồi hơi ống nước Foster-Wheeler kiểu Express "D"
  • 2 × turbine hơi nước General Electric công suất 13.500 mã lực (10.100 kW), dẫn động hai máy phát điện công suất 9.200 kilôwatt (12.300 hp)
  • 2 × động cơ điện công suất trục 12.000 shp (8,9 MW)
  • 2 × chân vịt ba cánh mangan-đồng nguyên khối đường kính 8 ft 6 in (2,59 m)
Tốc độ 23 hải lý trên giờ (43 km/h; 26 mph)
Tầm xa
  • 3.700 nmi (6.900 km) ở tốc độ 15 kn (28 km/h; 17 mph)
  • 6.000 nmi (11.000 km) ở tốc độ 12 kn (22 km/h; 14 mph)
Sức chứa 350 tấn dầu đốt
Thủy thủ đoàn tối đa 15 sĩ quan, 198 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • Radar dò tìm mặt biển Kiểu SL trên cột ăn-ten
  • Radar dò tìm không trung Kiểu SA (chỉ trên một số chiếc)
  • Sonar Kiểu 128D hay Kiểu 144 trong vòm thu vào được.
  • Ăn-ten định vị MF trước cầu tàu
  • Ăn-ten định vị cao tần Kiểu FH 4 trên đỉnh cột ăn-ten chính
Vũ khí

USS Enright (DE-216/APD-66) là một tàu hộ tống khu trục lớp Buckley được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tên nó được đặt theo Thiếu úy Hải quân Robert Paul Francis Enright (1916-1942), người từng phục vụ trên tàu khu trục Hammann (DD-412) và đã tử trận trong Trận Midway vào ngày 6 tháng 6, 1942.[1] Nó đã phục vụ trong chiến tranh cho đến năm 1945, khi được cải biến thành một tàu vận chuyển cao tốc mang ký hiệu lườn APD-66, và tiếp tục phục vụ cho đến khi chiến tranh kết thúc. Con tàu xuất biên chế năm 1946, rồi được chuyển cho Ecuador năm 1967, và tiếp tục phục vụ cùng Hải quân Ecuador như là chiếc BAE 25 de Julio (E-12) cho đến khi ngừng hoạt động và bị tháo dỡ năm 1989. Enright được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Những chiếc thuộc lớp tàu hộ tống khu trục Buckley có chiều dài chung 306 ft (93 m), mạn tàu rộng 37 ft 1 in (11,30 m) và độ sâu mớn nước khi đầy tải là 11 ft 3 in (3,43 m). Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.400 tấn Anh (1.400 t); và lên đến 1.740 tấn Anh (1.770 t) khi đầy tải.[2] Hệ thống động lực bao gồm hai turbine hơi nước General Electric công suất 13.500 mã lực (10.100 kW), dẫn động hai máy phát điện công suất 9.200 kilôwatt (12.300 hp) để vận hành hai trục chân vịt; [3][4] công suất 12.000 hp (8.900 kW) cho phép đạt được tốc độ tối đa 23 kn (26 mph; 43 km/h), và có dự trữ hành trình 6.000 nmi (6.900 mi; 11.000 km) khi di chuyển ở vận tốc đường trường 12 kn (14 mph; 22 km/h).[5]

Vũ khí trang bị bao gồm ba pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên tháp pháo nòng đơn có thể đối hạm hoặc phòng không, một khẩu đội 1,1 inch/75 caliber bốn nòng và tám pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và tám máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[5][6] Khác biệt đáng kể so với lớp Evarts dẫn trước là chúng có thêm ba ống phóng ngư lôi Mark 15 21 inch (533 mm). Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 186 sĩ quan và thủy thủ.[5]

Enright được đặt lườn tại Xưởng hải quân PhiladelphiaPhiladelphia, Pennsylvania vào ngày 22 tháng 2, 1943. Nó được hạ thủy vào ngày 29 tháng 5, 1943; được đỡ đầu bởi bà Katherine L. Enright, mẹ Thiếu úy Enright, và nhập biên chế vào ngày 21 tháng 9, 1943 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Adolphe Wildner.[1][7][8]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

USS Enright[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hoàn tất chuyến đi chạy thử máy huấn luyện tại khu vực Bermuda, từ ngày 15 tháng 11 đến ngày 9 tháng 12, 1943, Enright thực hiện hai chuyến hộ tống đoàn tàu vận tải đến Argentia, Newfoundland trước khi nhận nhiệm vụ hộ tống vận tải vượt Đại Tây Dương. Trong một năm tiếp theo nó đã hoàn tất sáu chuyến hộ tống vận tải khứ hồi sang các cảng Anh cùng một chuyến khác sang Oran, Algeria.[1]

Đang trên đường quay trở về Hoa Kỳ trong một chuyến đi vào ngày 16 tháng 4, 1944, Enright mắc tai nạn va chạm khi bị một tàu buôn trong đoàn tàu vận tải va phải. Nó bị thủng một lổ kéo dài 65 ft (20 m) bên mạn trái, làm ngập nước khoang nghỉ thủy thủ đoàn phía trước tàu và khiến nó bị nghiêng 9°. Hoạt động kiểm soát hư hỏng có hiệu quả đã giúp con tàu ngăn chặn việc ngập nước và quay về đến cảng New York an toàn. Việc sửa chữa nó kéo dài mất một tháng.[1]

Được xếp lại lớp vào ngày 21 tháng 1, 1945 và mang ký hiệu lườn mới APD-66, Enright được cải biến tại Xưởng hải quân Boston thành một tàu vận chuyển cao tốc thuộc lớp Charles Lawrence vào đầu năm 1945, và khởi hành từ Norfolk, Virginia vào ngày 7 tháng 4 để hướng sang khu vực Mặt trận Thái Bình Dương. Nó đã huấn luyện tại Trân Châu Cảng trong hai tuần trước khi hộ tống một đoàn tàu vận tải đi EniwetokUlithi, rồi tiếp tục hành trình, đi đến ngoài khơi Okinawa vào ngày 11 tháng 6. Ngoại trừ một giai đoạn hai tuần lễ trong tháng 7 phục vụ hộ tống một đoàn tàu vận tải đi từ Leyte, Philippines đến Okinawa, con tàu đã hoạt động tuần tra chống tàu ngầm tại khu vực phụ cận Okinawa cho đến ngày 24 tháng 7. Trong một tháng tiếp theo nó đảm nhiệm việc vận chuyển thư tín tại khu vực Nam Philippines và đến vịnh Brunei, Borneo.[1]

Sau khi Nhật Bản đã chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8 giúp kết thúc cuộc xung đột, Enrightrời vịnh Leyte vào ngày 21 tháng 8 để hộ tống một đoàn tàu vận tải đi đến vịnh Tokyo. Nó quay trở lại Manila để bắt đầu một loạt các chuyến hộ tống vận tải đưa lực lượng chiếm đóng đi sang Nhật Bản và Trung Quốc. Con tàu rời Manila vào ngày 2 tháng 12 cho hành trình quay trở về vùng bờ Đông Hoa Kỳ, về đến Norfolk vào ngày 11 tháng 1, 1946. Con tàu được cho xuất biên chế tại Green Cove Springs, Florida, vào ngày 21 tháng 6, 1946 và được đưa về Hạm đội Dự bị Đại Tây Dương. Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân sau khi chuyển giao cho Ecuador vào ngày 31 tháng 3, 1978.[1][7]

BAE 25 de Julio[sửa | sửa mã nguồn]

Trong khuôn khổ Chương trình Viện trợ Quân sự, chiếc tàu vận chuyển cao tốc được chuyển cho Ecuador vào ngày 14 tháng 7, 1967 và phục vụ càng Hải quân như là chiếc BAE 25 de Julio (E-12). Nó được đổi tên và xếp lại lớp thành tàu frigate BAE Morán Valverde (D-01) vào năm 1975. Chính phủ mua lại quyền sở hữu con tàu vào ngày 30 tháng 8, 1978; nó ngừng hoạt động và bị tháo dỡ năm 1989.[1][7]

Phần thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Enright được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][7]

Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bronze star
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bản mẫu:Ribbon devices/alt Bản mẫu:Ribbon devices/alt Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Huân chương Phục vụ Trung Hoa
Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ Huân chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương
với 1 Ngôi sao Chiến trận
Huân chương Chiến dịch Châu Âu-Châu Phi-Trung Đông
Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II Huân chương Phục vụ Chiếm đóng Hải quân Huân chương Giải phóng Philippine
(Philippine)

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h Naval Historical Center. Enright (DE-216). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  2. ^ Whitley 2000, tr. 300.
  3. ^ Whitley 2000, tr. 309–310.
  4. ^ Friedman 1982, tr. 143–144, 146, 148–149.
  5. ^ a b c Whitley 2000, tr. 300–301.
  6. ^ Friedman 1982, tr. 146, 418.
  7. ^ a b c d Yarnall, Paul R. (ngày 11 tháng 5 năm 2019). “USS Enright (DE 216/APD 66)”. NavSource.org. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2021.
  8. ^ Helgason, Guðmundur. “USS Enright (DE 216)”. uboat.net. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2021.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]