Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Jakob Rudnik”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Bổ sung nguồn Harvard style
Bổ sung thông tin và nguồn
Dòng 18: Dòng 18:
}}
}}


'''Jakob Rudnik''' (24 tháng 3 năm 1894 &#x2013; 13 tháng 3 năm 1963<ref name="Litten">{{harvnb|Litten|1994|p=}}</ref>) là một điệp viên hoạt động trong Bộ Liên lạc Quốc tế (tiếng Nga: ''Otdel Mezhdunarodny Sviasy'' (OMS), tiếng Anh: ''International Liasion Department'') hoặc còn gọi Bộ Phương Đông, là tổ chức điệp vụ bí mật của [[Đệ Tam Quốc tế|Quốc tế Cộng sản]].
'''Jakob Rudnik''' (24 tháng 3 năm 1894 &#x2013; 13 tháng 3 năm 1963<ref name="Litten">{{harvnb|Litten|1994|p=}}</ref>) là một điệp viên hoạt động trong Bộ Liên lạc Quốc tế (tiếng Nga: ''Otdel Mezhdunarodny Sviasy'' (OMS), tiếng Anh: ''International Liasion Department'') hoặc còn gọi Bộ Phương Đông, là tổ chức điệp vụ bí mật của [[Đệ Tam Quốc tế|Quốc tế Cộng sản]]. Ông nổi tiếng qua "Vụ án Noulens" khi hoạt động dưới mật danh '''Hilaire Noulens''' và bị bắt ở Thượng Hải (Trung Quốc) từ tháng 6 năm 1931 đến tháng 7 năm 1939.


== Vụ án Noulens ==
== Hoạt động cách mạng ==
Rudnik hoạt động cho lực lượng tình báo của Hồng Quân Liên Xô tại Pháp.<ref>{{harvnb|Volodarsky|2014|p=[https://books.google.ca/books?id=36GbBQAAQBAJ&pg=PA20 20]}}</ref> Tháng 12 năm 1921, [[Cục Số Hai]] (''Deuxième Bureau''), một cơ quan tình báo của quân đội Pháp, nhận được báo cáo từ Thụy Sĩ thông báo việc điệp viên Liên Xô đang tìm cách lấy cắp thông tin về vũ khí quân đội Pháp. Tình báo Pháp đã theo dõi và bắt giam Rudnik. Ông bị giam giữ trong 2 năm và sau đó bị trục xuất khỏi Pháp.<ref>{{harvnb|Volodarsky|2014|p=[https://books.google.ca/books?id=36GbBQAAQBAJ&pg=PA17 17]}}</ref>
Rudnik được quốc tế biết đến vào năm 1931 dưới mật danh khi hoạt động là '''Hilaire Noulens''', khi ông bị bắt tại [[Thượng Hải]] (Trung Quốc) cùng với vợ [[Tatiana Moissenko]] bởi lực lượng đặc nhiệm thuộc Cảnh sát thành phố Thượng Hải vào ngày 15 tháng 6 năm 1931.

Sau đó, ông được Quốc tế Cộng sản cử sang Châu Á, nhằm phát triển mạng lưới hoạt động tại khu vực này. Ông hoạt động chủ yếu tại Trung Quốc và đóng vai trò quan trọng khi lãnh đạo Bộ Liên lạc Quốc tế (OMS), cánh tay tình báo, nhu vận, thông tin liên lạc của Quốc tế Cộng sản tại vùng Viễn Đông châu Á.<ref>{{harvnb|Baxter|2013|p=213}}</ref>

Cơ quan Tình báo Mật vụ của Anh (''Secret Intelligence Service'' - SIS) mở rộng hoạt động tại Châu Á nhằm theo dõi và triệt phá mạng lưới của Quốc tế Cộng sản. Cơ quan tình báo này đã bắt được Serge Lefranc (còn có tên khác: Joseph Ducroux), một điệp viên của Quốc tế Cộng sản, đang hoạt động tại Singapore vào ngày 1 tháng 6 năm 1931.<ref>{{harvnb|Duncanson|1974|pp=85-88}}</ref> Từ những thông tin thu giữ được từ Lefranc, tình báo Anh tại Trung Quốc phát hiện ra địa chỉ những thành viên Quốc tế Cộng sản thường liên lạc với Lefrance, trong đó có Rudnik tại Thượng Hải và Nguyễn Ái Quốc (lúc đó hoạt động dưới tên [[Vụ án Tống Văn Sơ|Tống Văn Sơ]]) tại Hồng Kông.

Cảnh sát Thượng Hải lần theo địa chỉ được cung cấp bởi tình báo Anh, phát hiện một nhân vật tên Hilaire Noulens , một "giáo sư" người Pháp.<ref name=Matthews100>{{harvnb|Matthews|2019|p=100)</ref> Xác nhận đây chính là người lãnh đạo Bộ Liên lạc Quốc tế (OMS) của Quốc tế Cộng sản, cảnh sát Thượng Hải bắt Hilaire Noulens và "vợ" [[Tatiana Moissenko]] (có sách viết Tatyana Moiseyana<ref name=Matthews100 />) tại căn hộ số 235 phố Tứ Xuyên, Thượng Hải.<ref name=Matthews100 /> Ban đầu, Noulens và Moissenko khai rằng họ là người Bỉ với hi vọng thoát khỏi bị bắt giữ nhờ quyền ngoại lãnh thổ (''extra-territorial rights'') theo luật Định cư Quốc tế (''International Settlement''). Tuy nhiên, sau khi Sở ngoại giao Bỉ tại Thượng Hải bác bỏ thông tin này, hai người bị chuyển qua Tòa án Thượng Hải để xử lý tố tụng. Ngày 4 tháng 8, Rudnik thay đổi lời khai, tự nhận mình tên Xavier Alois Beuret, người Thụy Sĩ.<ref name=Matthews101>{{harvnb|Matthews|2019|p=101)</ref>


[[Tập tin:Jakob Rudnik and his wife2.jpg|nhỏ|phải|Jakob Rudnik và vợ trong nhà tù Trung Quốc năm 1937]]
[[Tập tin:Jakob Rudnik and his wife2.jpg|nhỏ|phải|Jakob Rudnik và vợ trong nhà tù Trung Quốc năm 1937]]
Dòng 27: Dòng 33:


Tin tức về số phận của cặp vợ chồng, tuy từng là chủ đề của sự suy đoán của báo chí, nhưng sớm bị lu mờ bởi các sự kiện xảy ra sau khi Nhật Bản xâm lược các khu vực do Trung Quốc quản lý ở thành phố Thượng Hải vào ngày 28 tháng 1 năm 1932, sau [[sự kiện Phụng Thiên]].
Tin tức về số phận của cặp vợ chồng, tuy từng là chủ đề của sự suy đoán của báo chí, nhưng sớm bị lu mờ bởi các sự kiện xảy ra sau khi Nhật Bản xâm lược các khu vực do Trung Quốc quản lý ở thành phố Thượng Hải vào ngày 28 tháng 1 năm 1932, sau [[sự kiện Phụng Thiên]].

Sau đó, ông tham chiến tại Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau chiến tranh, ông làm giảng viên tại Viện Quan hệ Quốc tế Moscow (''Moscow Institute of International Relations'') và huấn luyện nhiều nhà ngoại giao và điệp viên Liên Xô.<ref>{{harvnb|Volodarsky|2014|p=[https://books.google.ca/books?id=36GbBQAAQBAJ&pg=PA512 512]}}</ref>


== Những khám phá sau này ==
== Những khám phá sau này ==
Dòng 45: Dòng 53:
== Tham khảo ==
== Tham khảo ==
*{{cite journal | last=Streets-Salter | first=Heather | title=The Noulens Affair in East and Southeast Asia | journal=The Journal of American-East Asian Relations | publisher=Brill | volume=21 | issue=4 | date=2014-11-26 | issn=1058-3947 | doi=10.1163/18765610-02104006 | pages=394–414|ref=harv}}
*{{cite journal | last=Streets-Salter | first=Heather | title=The Noulens Affair in East and Southeast Asia | journal=The Journal of American-East Asian Relations | publisher=Brill | volume=21 | issue=4 | date=2014-11-26 | issn=1058-3947 | doi=10.1163/18765610-02104006 | pages=394–414|ref=harv}}

*{{cite journal | last=Litten | first=Frederick S. | title=The Noulens Affair | journal=The China Quarterly | publisher=Cambridge University Press (CUP) | volume=138 | year=1994 | issn=0305-7410 | doi=10.1017/s0305741000035852 | pages=492–512|ref=harv}}
*{{cite journal | last=Litten | first=Frederick S. | title=The Noulens Affair | journal=The China Quarterly | publisher=Cambridge University Press (CUP) | volume=138 | year=1994 | issn=0305-7410 | doi=10.1017/s0305741000035852 | pages=492–512|ref=harv}}
*{{Cite book| url=https://archive.org/details/witness00cham| title=Witness| last=Chambers| first=Whittaker| publisher=Random House| year=1952| location=New York| pages=399–400, 405, 456|lccn=52005149}}
*{{Cite book| url=https://archive.org/details/witness00cham| title=Witness| last=Chambers| first=Whittaker| publisher=Random House| year=1952| location=New York| pages=399–400, 405, 456|lccn=52005149}}

*{{cite book | last=Volodarsky | first=B. | title=Stalin's Agent: The Life and Death of Alexander Orlov | publisher=OUP Oxford | year=2014 | isbn=978-0-19-104552-3 | url=https://books.google.ca/books?id=tM6SBQAAQBAJ&dq=Stalin%27s+Agent:+The+Life+and+Death+of+Alexander+Orlov&source=gbs_navlinks_s | access-date=2020-06-16 | page=17,20,512| ref=harv}}

*{{cite book | last=Baxter | first=Christopher | title=Britain in Global Politics Volume 1 | chapter=The Secret Intelligence Service and China: The Case of Hilaire Noulens, 1923–1932 | publisher=Palgrave Macmillan UK | publication-place=London | year=2013 | isbn=978-1-349-34774-2 | doi=10.1057/9781137367822_6 | pages=132–152|ref=harv}}

*{{Chú thích tạp chí|last=Duncanson|first=Dennis J.|date=1974|title=Ho-Chi-Minh In Hong Kong, 1931–32|journal=The China Quarterly|volume=57|issue=|pages=84-100|via=JSTOR|url=https://www.jstor.org/stable/652230|ref=harv}}

*{{cite book | last=Matthews | first=O. | title=An Impeccable Spy: Richard Sorge, Stalin’s Master Agent | publisher=Bloomsbury Publishing | year=2019 | isbn=978-1-4088-5780-9 | url=https://books.google.ca/books?id=dHN_DwAAQBAJ&pg=PT102&dq=Albert+Einstein,+H.G.+Wells,+Madame+Sun+Yat-sen,+Henri+Barbusse+International+Noulens/Ruegg+Defence+Committee&hl=en&sa=X&ved=0ahUKEwjP_rWEmoXqAhU_FjQIHbM4DR0Q6AEIKDAA#v=onepage&q=Albert%20Einstein%2C%20H.G.%20Wells%2C%20Madame%20Sun%20Yat-sen%2C%20Henri%20Barbusse%20International%20Noulens%2FRuegg%20Defence%20Committee&f=false | language=| access-date=2020-06-16 | page=}}


== Liên kết ngoài ==
== Liên kết ngoài ==

Phiên bản lúc 02:15, ngày 16 tháng 6 năm 2020

Jakob Rudnik
Jakob Rudnik trong nhà tù Trung Quốc năm 1937
Sinh(1894-03-24)24 tháng 3, 1894
Borshchahivka, Kiev, Ukraina
Mất13 tháng 3, 1963(1963-03-13) (68 tuổi)
Tên khácYakov Rudnik
Hilaire Noulens
Paul Ruegg
Nghề nghiệpĐiệp viên - Thành viên Quốc tế Cộng sản
Thư ký Chi nhánh Bộ Phương Đông Quốc tế Cộng sản
Tổ chứcQuốc tế Cộng sản

Jakob Rudnik (24 tháng 3 năm 1894 – 13 tháng 3 năm 1963[1]) là một điệp viên hoạt động trong Bộ Liên lạc Quốc tế (tiếng Nga: Otdel Mezhdunarodny Sviasy (OMS), tiếng Anh: International Liasion Department) hoặc còn gọi Bộ Phương Đông, là tổ chức điệp vụ bí mật của Quốc tế Cộng sản. Ông nổi tiếng qua "Vụ án Noulens" khi hoạt động dưới mật danh Hilaire Noulens và bị bắt ở Thượng Hải (Trung Quốc) từ tháng 6 năm 1931 đến tháng 7 năm 1939.

Hoạt động cách mạng

Rudnik hoạt động cho lực lượng tình báo của Hồng Quân Liên Xô tại Pháp.[2] Tháng 12 năm 1921, Cục Số Hai (Deuxième Bureau), một cơ quan tình báo của quân đội Pháp, nhận được báo cáo từ Thụy Sĩ thông báo việc điệp viên Liên Xô đang tìm cách lấy cắp thông tin về vũ khí quân đội Pháp. Tình báo Pháp đã theo dõi và bắt giam Rudnik. Ông bị giam giữ trong 2 năm và sau đó bị trục xuất khỏi Pháp.[3]

Sau đó, ông được Quốc tế Cộng sản cử sang Châu Á, nhằm phát triển mạng lưới hoạt động tại khu vực này. Ông hoạt động chủ yếu tại Trung Quốc và đóng vai trò quan trọng khi lãnh đạo Bộ Liên lạc Quốc tế (OMS), cánh tay tình báo, nhu vận, thông tin liên lạc của Quốc tế Cộng sản tại vùng Viễn Đông châu Á.[4]

Cơ quan Tình báo Mật vụ của Anh (Secret Intelligence Service - SIS) mở rộng hoạt động tại Châu Á nhằm theo dõi và triệt phá mạng lưới của Quốc tế Cộng sản. Cơ quan tình báo này đã bắt được Serge Lefranc (còn có tên khác: Joseph Ducroux), một điệp viên của Quốc tế Cộng sản, đang hoạt động tại Singapore vào ngày 1 tháng 6 năm 1931.[5] Từ những thông tin thu giữ được từ Lefranc, tình báo Anh tại Trung Quốc phát hiện ra địa chỉ những thành viên Quốc tế Cộng sản thường liên lạc với Lefrance, trong đó có Rudnik tại Thượng Hải và Nguyễn Ái Quốc (lúc đó hoạt động dưới tên Tống Văn Sơ) tại Hồng Kông.

Cảnh sát Thượng Hải lần theo địa chỉ được cung cấp bởi tình báo Anh, phát hiện một nhân vật tên Hilaire Noulens , một "giáo sư" người Pháp.[6] Xác nhận đây chính là người lãnh đạo Bộ Liên lạc Quốc tế (OMS) của Quốc tế Cộng sản, cảnh sát Thượng Hải bắt Hilaire Noulens và "vợ" Tatiana Moissenko (có sách viết Tatyana Moiseyana[6]) tại căn hộ số 235 phố Tứ Xuyên, Thượng Hải.[6] Ban đầu, Noulens và Moissenko khai rằng họ là người Bỉ với hi vọng thoát khỏi bị bắt giữ nhờ quyền ngoại lãnh thổ (extra-territorial rights) theo luật Định cư Quốc tế (International Settlement). Tuy nhiên, sau khi Sở ngoại giao Bỉ tại Thượng Hải bác bỏ thông tin này, hai người bị chuyển qua Tòa án Thượng Hải để xử lý tố tụng. Ngày 4 tháng 8, Rudnik thay đổi lời khai, tự nhận mình tên Xavier Alois Beuret, người Thụy Sĩ.[7]

Jakob Rudnik và vợ trong nhà tù Trung Quốc năm 1937

Nhờ vào sự vận động tuyên truyền của nhà hoạt động chính trị Willi Münzenberg, vụ án thu hút sự chú ý mạnh mẽ từ báo chí. Những người nổi tiếng như Albert Einstein, HG Wells, bà Tống Khánh LinhHenri Barbusse đã tham gia vào Ủy ban Quốc tế Bảo vệ Noulens/Ruegg (International Noulens/Ruegg Defence Committee) mới được thành lập. Vụ việc đã được thảo luận tại cả Hạ viện AnhThượng viện Hoa Kỳ.

Tin tức về số phận của cặp vợ chồng, tuy từng là chủ đề của sự suy đoán của báo chí, nhưng sớm bị lu mờ bởi các sự kiện xảy ra sau khi Nhật Bản xâm lược các khu vực do Trung Quốc quản lý ở thành phố Thượng Hải vào ngày 28 tháng 1 năm 1932, sau sự kiện Phụng Thiên.

Sau đó, ông tham chiến tại Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau chiến tranh, ông làm giảng viên tại Viện Quan hệ Quốc tế Moscow (Moscow Institute of International Relations) và huấn luyện nhiều nhà ngoại giao và điệp viên Liên Xô.[8]

Những khám phá sau này

Trong gần 60 năm, danh tính của Noulens bị gọi sai là Paul Ruegg. Do đó, trong một số ít tác phẩm liên quan đến vụ bắt giữ Rudnik và vợ vào ngày 15 tháng 6 năm 1931, sai lầm này là phổ biến. [1]

Trong cuốn hồi ký Witness (1952), Whittaker Chambers gọi "Vụ Noulens" là "Vụ án Robinson-Rubens" nhằm đề cập đến Rudnik và một nhân vật tên "Richard Robinson-Rubens".[9]

Cho đến năm 1994, Tiến sĩ Frederick Litten công bố bài báo trên tờ China Quarterly và lúc đó, danh tính thực sự của Noulens mới bị phơi bày.[1]

Xem thêm

  • Cục liên lạc quốc tế
  • Phòng làm việc của Whittaker

Chú thích

  1. ^ a b c Litten 1994
  2. ^ Volodarsky 2014, tr. 20
  3. ^ Volodarsky 2014, tr. 17
  4. ^ Baxter 2013, tr. 213
  5. ^ Duncanson 1974, tr. 85-88
  6. ^ a b c {{harvnb|Matthews|2019|p=100)
  7. ^ {{harvnb|Matthews|2019|p=101)
  8. ^ Volodarsky 2014, tr. 512
  9. ^ Chambers 1952, tr. 356

Tham khảo

  • Streets-Salter, Heather (26 tháng 11 năm 2014). “The Noulens Affair in East and Southeast Asia”. The Journal of American-East Asian Relations. Brill. 21 (4): 394–414. doi:10.1163/18765610-02104006. ISSN 1058-3947.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Baxter, Christopher (2013). “The Secret Intelligence Service and China: The Case of Hilaire Noulens, 1923–1932”. Britain in Global Politics Volume 1. London: Palgrave Macmillan UK. tr. 132–152. doi:10.1057/9781137367822_6. ISBN 978-1-349-34774-2.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)

Liên kết ngoài