Bước tới nội dung

Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thành phố Łódź”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Tạo với bản dịch của trang “Łódź
(Không có sự khác biệt)

Phiên bản lúc 13:24, ngày 13 tháng 9 năm 2020

Sự chiếm đóng Ba Lan của Đức Quốc xã

Môn Địa lý

Khí hậu

Quận

Łódź có năm quận ( dzielnica ): Bałuty, Widzew, Śródmieście, Polesie, Górna.

Thành phố hiện được chia thành 36 quận là: Bałuty-Centrum, Bałuty-Doły, Bałuty Zachodnie, Julianów-Marysin-Rogi, Łagiewniki, Radogoszcz, Teofilów-Wielkopolska, Osrowiedle Wzniesień Łódąrkich, Chojódzkich, Chojnyzkich, Chojakja, Nad Nerem, Piastów-Kurak, Rokicie, Ruda, Wiskitno, Osiedle im. Józefa Montwiłła-Mireckiego, Karolew-Retkinia Wschód, Koziny, Lublinek-Pienista, Retkinia Zachód-Smulsko, Stare Polesie, Zdrowie-Mania, Złotno, Śródmieście-Wschzenazów, Dolosinachwatednale, Osiedle K, Now Stary Widzew, Stoki, Widzew-Wschód, Zarzew và Osiedle nr 33.

Dân số

Công nhân nhà máy dệt ở Łódź năm 1950
Lịch sử dân số
NămSố dân±%
1800430—    
1820770+79.1%
18304.340+463.6%
185015.760+263.1%
186032.640+107.1%
1872100.000+206.4%
1900314.020+214.0%
1913477.862+52.2%
1921452.000−5.4%
1931605.500+34.0%
1939672.000+11.0%
1946496.929−26.1%
1950620.273+24.8%
1960709.698+14.4%
1970762.699+7.5%
1980835.658+9.6%
1990848.258+1.5%
2000793.217−6.5%
2005767.628−3.2%
2010730.633−4.8%
2015700.982−4.1%
2019679.941−3.0%

Łódź là thành phố lớn thứ hai đến năm 2007, vị trí này thuộc về Kraków . Điều này là do khu vực của Łódź Voivodeship, [1] thành phố đang giảm dân số mạnh. [2] Kể từ đỉnh điểm dân số năm 1988, lượng cư dân lên tới 854.261 người, [3] Łódź đã mất đi hơn 150.000 cư dân. Sụt giảm dân số chủ yếu là do tỷ lệ sinh thấp và tuổi thọ trung bình thấp, mặt khác là cán cân di cư âm. Một yếu tố chính dẫn đến sự thu hẹp của thành phố là sự chuyển đổi từ nền kinh tế xã hội chủ nghĩa sang nền kinh tế thị trường sau năm 1989 và kết quả là cuộc khủng hoảng kinh tế, [4] nhưng tăng trưởng kinh tế sau khi Ba Lan gia nhập Liên minh châu Âu năm 2004 đã không đảo ngược xu hướng. [5] Một số khu vực phi đô thị ở các quận xung quanh Łódź tăng đều đặn về dân số. Trong khi 'khu vực rìa' xung quanh Łódź dự đoán ghi nhận mức tăng trưởng không đáng kể dưới 2.000 người đến năm 2050, dân số của thành phố vào giữa thế kỷ 21 được ước tính sẽ giảm xuống dưới mức 500.000 người. Quá trình già hóa,dân số giảm đang diễn ra của Łódź là một thách thức lớn đối với sự phát triển trong tương lai của thành phố, gây áp lực lên cơ sở hạ tầng xã hội và dịch vụ y tế. [6]

Łódź có tỷ lệ nữ hóa cao nhất trong số các thành phố lớn của Ba Lan, một di sản của quá khứ công nghiệp của thành phố, khi các nhà máy dệt thu hút một lượng lớn nhân viên nữ.

Những địa điểm nổi tiếng

Tác phẩm điêu khắc của Artur Rubinstein trên Phố Piotrkowska ở Łódź, nơi Rubinstein sinh ra và lớn lên

Các mốc dễ nhận biết nhất của thành phố là đường Piotrkowska, đó vẫn là đường phố cao và thu hút du lịch chính ở thành phố, chạy theo hướng bắc xuống nam gần 5 kilômét (3,1 dặm) .Điều này khiến nó trở thành một trong những con phố thương mại dài nhất thế giới. Hầu hết các mặt tiền của tòa nhà, nhiều trong số đó có từ thế kỷ 19,hiện nay đã được cải tạo. [7] Đây là nơi tập trung các nhà hàng, quán bar và quán cà phê .

Những ngôi nhà bỏ hoang trong toàn bộ trung tâm thành phố đã được cải tạo như một phần của dự án phục hồi đang được thực hiện bởi chính quyền địa phương. [8] Ví dụ tốt nhất về tái tạo đô thị ở Łódź là khu phức hợp Manufaktura,có từ thế kỷ XIX. [9] Địa điểm này, vốn là trung tâm của đế chế công nghiệp của Izrael Pozna ,ski, hiện trở thành một trung tâm mua sắm, nhiều nhà hàng, khách sạn 4 sao, rạp chiếu phim ghép nối, bảo tàng nhà máy, cơ sở chơi bowling và thể dục và một trung tâm triển lãm khoa học. [10] Khai trương vào năm 2006, nó nhanh chóng trở thành một trung tâm văn hóa giải trí và mua sắm, cũng như một địa danh nổi tiếng của thành phố thu hút cả khách du lịch trong và ngoài nước. Thành phố cũng có khả năng nhận được một sự thúc đẩy lớn về du lịch khi dự án tái sinh quy mô lớn của trung tâm thành phố (trị giá 4 tỷ PLN) được hoàn thành. [11] Những nỗ lực của chính quyền địa phương trong việc biến thành phố công nghiệp cũ thành một môi trường đô thị thịnh vượng và điểm đến du lịch đã tạo cơ sở cho việc thành phố thất bại trong việc tổ chức triển lãm EXPO Quốc tế 2022 về chủ đề đổi mới đô thị. [12]

Muzeum Sztuki, chi nhánh ms2, bảo tàng và phòng trưng bày nghệ thuật hiện đại

Trong số 14 bảo tàng đã đăng ký được tìm thấy ở Łódź, [13] có Bảo tàng Nghệ thuật Sách độc lập, được trao Giải thưởng Định chế của Hiệp hội Lịch sử In ấn Hoa Kỳ năm 2015 vì đóng góp xuất sắc trong việc nghiên cứu, ghi chép, bảo quản và phổ biến lịch sử in ấn ở Ba Lan trong 35 năm qua. [14] Các bảo tàng đáng chú ý khác bao gồm Bảo tàng Dệt may Trung tâm với lối kiến trúc bằng gỗ trưng bày ngoài trời, Bảo tàng Điện ảnh, nằm trong Cung điện Scheibler và Bảo tàng Truyền thống Độc lập, nằm trong tòa nhà của một nhà tù Sa hoàng lịch sử từ cuối thế kỷ 19. [15] Một cơ sở khác thường hơn, bảo tàng Dętka mang đến cho khách du lịch cơ hội tham quan hệ thống cống thoát nước thành phố được thiết kế vào những năm đầu của thế kỷ 20 bởi kỹ sư người Anh William Heerlein Lindley .

Giáo dục

Văn phòng hiệu trưởng Đại học Công nghệ Łódź (trước đây là Biệt thự Reinhold Richter, 1904)

Łódź là một trung tâm thịnh vượng của đời sống học tập. Hiện nay Łódź có ba trường đại học lớn của nhà nước, sáu cơ sở giáo dục đại học đã hoạt động trong hơn nửa thế kỷ và một số trường giáo dục đại học nhỏ hơn. Các trường đại học có nhiều sinh viên nhất ở Łódź bao gồm:

  • Đại học Łódź ( - Uniwersytet Łódzki )
  • Đại học Công nghệ Lodz ( - Politechnika Łódzka )
  • Đại học Y Łódź ( Uniwersytet Medyczny w Łodzi )
  • Phim trường Quốc gia ở Łódź ( Państwowa Wyższa Szkoła Filmowa )
  • Học viện Âm nhạc ở Łódź ( Akademia Muzyczna im. Grażyny tôi Kiejstuta Bacewiczów w Łodzi )
  • Học viện Mỹ thuật ở Łódź ( Akademia Sztuk Pięknych im. Wł. Strzemińskiego w Łodzi )

Trong bảng xếp hạng năm 2018 về các cơ sở giáo dục đại học công ở Ba Lan, Đại học Łódź đứng thứ 20 (vị trí thứ 6 trong số các trường đại học) và Đại học Công nghệ Lodz thứ 12 (vị trí thứ 6 trong số các trường đại học kỹ thuật). Đại học Y khoa Łódź được xếp hạng thứ 5 trong số các trường đại học y của Ba Lan. Các khóa học hàng đầu được giảng dạy ở Łódź bao gồm quản trị , luật và sinh học.

Ngoài ra còn có một số cơ sở giáo dục đại học thuộc sở hữu tư nhân ở Łódź. Các trường lớn nhất trong số này là Đại học Khoa học Xã hội ( Społeczna Akademia Nauk ) và Đại học Kinh tế và Nhân văn ở Łódź ( Akademia Humanistyczno-Ekonomiczna w Łodzi ). Trong bảng xếp hạng năm 2018 về các trường đại học tư nhân ở Ba Lan, trường trước đây đứng thứ 9 và thứ 23. [16]

Trường chiếu phim quốc gia ở Łódź

Phim trường Quốc gia ở Cung điện Oskar Kon

Leon Schiller National Higher School of Film, Television and Theater in Łódź ( Państwowa Wyższa Szkoła Filmowa, Telewizyjna i Teatralna im. Leona Schillera w Łodzi ) là học viện đáng chú ý nhất dành cho các diễn viên, đạo diễn, nhiếp ảnh gia, điều hành máy quay và nhân viên truyền hình tương lai ở Ba Lan. Nó được thành lập vào ngày 8 tháng 3 năm 1948 và được lên kế hoạch chuyển đến Warsaw ngay sau khi thành phố được xây dựng lại sau Cuộc nổi dậy Warsaw . Tuy nhiên, cuối cùng trường vẫn ở Łódź và ngày nay là một trong những cơ sở giáo dục đại học nổi tiếng nhất thành phố.

Vào cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, Łódź vẫn là thành phố lớn ngoài Kraków không bị phá hủy bởi chiến tranh. Việc thành lập Trường Điện ảnh Quốc gia đóng một vai trò quan trọng theo quan điểm văn hóa, trước kia chỉ thuộc về Warsaw và Kraków. Những sinh viên đầu tiên của Trường bao gồm các đạo diễn Andrzej Munk, Andrzej Wajda, Kazimierz Karabasz (một trong những người sáng lập ra Phim tài liệu Ba Lan Đen) và Janusz Morgenstern, một trong những người sáng lập của Trường Kỹ thuật Điện ảnh Ba Lan . [17]

Văn hóa

Bảo tàng nghệ thuật ở Łódź, cơ quan văn hóa của thành phố

Các bảo tàng ở Łódź

  • Bảo tàng Khảo cổ học và Dân tộc học
  • Sách bảo tàng nghệ thuật
  • Bảo tàng Dệt may Trung ương
  • Bảo tàng lịch sử thành phố Lodz
  • Bảo tàng phim
  • Bảo tàng Cung điện Herbst
  • Muzeum Sztuki (Bảo tàng Nghệ thuật)
  • Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên, Đại học Łódź
  • Muzeum Tradycji Niepodległościowych (Bảo tàng Truyền thống Độc lập) với ba phần:
  • Se-ma-for bảo tàng phim hoạt hình stop-motion
  1. ^ Szukalski, Piotr; Martinez-Fernandez, Cristina; Weyman, Tamara (2013). “Lódzkie Region: Demographic Challenges Within an Ideal Location”. OECD Local Economic and Employment Development (LEED) Working Papers (5/2013): 1–56. doi:10.1787/5k4818gt720p-en. eISSN 2079-4797. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2017. |hdl-access= cần |hdl= (trợ giúp) (p. 7).
  2. ^ Gołata, Elżbieta; Kuropka, Ireneusz (2016). “Large cities in Poland in face of demographic changes”. Bulletin of Geography. Socio–Economic Series. 34 (34): 17–31. doi:10.1515/bog-2016-0032. ISSN 1732-4254. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2017. (p. 21).
  3. ^ Obraniak, Włodzimierz (2007). Ludność Łodzi i innych wielkich miast w Polsce w latach 1984-2006 (PDF). Łódź: Urząd Statystyczny w Łodzi. tr. 5. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2017.
  4. ^ Cox, Wendell (2014). “International Shrinking Cities: Analysis, Classification, and Prospects”. Trong Richardson, Harry W.; Nam, Chang Woon (biên tập). Shrinking Cities: A Global Perspective. London and New York: Routledge. tr. 11–27. ISBN 978-0415643962. (p.14).
  5. ^ Holm, Andrej; Marcińczak, Szymon; Ogrodowczyk, Agnieszka (2015). “New-Build Gentrification in the Post-Socialist City: Łódź and Leipzig Two Decades After Socialism” (PDF). Geografie. 120 (2): 164–187. doi:10.37040/geografie2015120020164. ISSN 1212-0014. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2017. (pp. 169–170).
  6. ^ Cudny, Waldemar (2012). “Socio-Economic Changes in Lodz – The Result of Twenty Years of System Transformation” (PDF). Geografický časopis (Geographical Journal). 64 (1): 3–27. ISSN 1335-1257. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2017. (pp. 11–12).
  7. ^ “Piotrkowska Street Stroll.” Poland's Official Travel Website. Retrieved 18 July 2017.
  8. ^ Krakowiak, Beata (2015). “Museums in Łódź as an Element of Tourism Space and the Connection Between Museums and the City's Tourism Image”. Tourism. 25 (2): 87–96. doi:10.1515/tour-2015-0008. eISSN 2080-6922. ISSN 0867-5856. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2017. (p. 93).
  9. ^ Kaczmarek, Sylwia; Marcinczak, Szymon (2013). “The Blessing in Disguise: Urban Regeneration in Poland in a Neo-Liberal Milieu”. Trong Leary, Michael E.; McCarthy, John (biên tập). The Routledge Companion to Urban Regeneration. Routledge. tr. 98–106. ISBN 978-0-415-53904-3. (p. 103).
  10. ^ Strumiłło, Krystyna (2016). “Adaptive Reuse of Buildings as an Important Factor of Sustainable Development”. Trong Charytonowicz, Jerzy (biên tập). Advances in Human Factors and Sustainable Infrastructure. Springer. tr. 51–59. ISBN 978-3-319-41940-4. (p. 56).
  11. ^ “4 Billion PLN for Revitalization of Downtown Łódź.” lodzpost.com. Retrieved 18 July 2017.
  12. ^ “Poland to invest in Łódź despite failed bid for Expo 2022.” Radio Poland. 16 November 2017. Retrieved 16 November 2017.
  13. ^ Krakowiak, p. 88. Krakowiak also lists 13 more institutions that operate as museums but are not registered with the National Institute for Museums and Public Collections (p. 95), bringing the total number of museums in Łódź to 27.
  14. ^ “Discover the Book Art Museum, Łódź, Poland.” AEPM: Association of European Printing Museums. January 2015. Retrieved 18 July 2017.
  15. ^ Krakowiak, p. 88.
  16. ^ Perspektywy University Ranking 2018. Retrieved 7 July 2018.
  17. ^ Dana, Przemek (16 tháng 1 năm 2015). “Janusz Morgenstern, reżyser m.in. "Stawki większej niż życie" nie żyje”. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2018.