Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cuộc định cư châu Mỹ”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 35: Dòng 35:


==Niên đại, lý do và nguồn di cư==
==Niên đại, lý do và nguồn di cư==
[[File:Early migrations mercator.svg|thumb|upright=1.35|*25,000 năm trước Beringia trong thời kỳ LGM *16–14,000 năm trước con người lan rộng ở châu Mỹ sau LGM]]
Cộng đồng khảo cổ học nói chung đồng ý rằng tổ tiên của các dân tộc bản địa châu Mỹ đã vào châu Mỹ cuối thời kỳ Cực đại băng hà cuối cùng (LGM), ngay sau 20.000 năm trước, với sự hiện diện khảo cổ học được xác định ngay sau 16.000 năm trước.
Cộng đồng khảo cổ học nói chung đồng ý rằng tổ tiên của các dân tộc bản địa châu Mỹ đã vào châu Mỹ cuối thời kỳ Cực đại băng hà cuối cùng (LGM), ngay sau 20.000 năm trước, với sự hiện diện khảo cổ học được xác định ngay sau 16.000 năm trước.


===Niên đại===
===Niên đại===
Vào đầu thế kỷ 21, các mô hình về niên đại di cư được chia thành hai cách tiếp cận chính.<ref name="White2006">{{cite book|first=Phillip M. |last=White|title=American Indian chronology: chronologies of the American mosaic|url=https://books.google.com/books?id=_VnZ8_2kSScC&pg=PA1|year=2006|publisher=Greenwood |isbn=978-0-313-33820-5|page=1}}</ref><ref name=SpencerWells2>{{cite book|first1=Spencer |last1=Wells |first2=Mark |last2=Read |name-list-style=amp|title=The Journey of Man - A Genetic Odyssey|url=https://books.google.com/books?id=WAsKm-_zu5sC&pg=PA138|publisher=Random House|isbn=978-0-8129-7146-0|year=2002|pages=138–140}}</ref>
Vào đầu thế kỷ 21, các mô hình về niên đại di cư được chia thành hai cách tiếp cận chính.[30][31]


Đầu tiên là ''lý thuyết niên đại ngắn'', rằng cuộc di cư đầu tiên xảy ra sau Cực đại băng hà cuối cùng, đã suy giảm sau khoảng 19.000 năm trước,[20] và sau đó là những làn sóng di dân liên tiếp. [32]
Đầu tiên là ''lý thuyết niên đại ngắn'', rằng cuộc di cư đầu tiên xảy ra sau Cực đại băng hà cuối cùng, đã suy giảm sau khoảng 19.000 năm trước,<ref name=Blaiseetal1990 /> và sau đó là những làn sóng di dân liên tiếp.<ref>{{cite magazine|url=http://news.nationalgeographic.com/news/2008/03/080313-first-americans.html|first=Stefan |last=Lovgren |title=Americas Settled 15,000 Years Ago, Study Says|magazine=[[National Geographic]]|date=March 13, 2008}}</ref>


Thứ hai là ''lý thuyết niên đại dài'', đề xuất rằng nhóm người đầu tiên vào Beringia, bao gồm cả những vùng không có băng của Alaska, ở một thời điểm sớm hơn nhiều, có lẽ là 40.000 năm trước,<ref name=Bonattoetal2009>{{cite journal|doi=10.1073/pnas.94.5.1866|title=A single and early migration for the peopling of the Americas supported by mitochondrial DNA sequence data|journal=[[Proceedings of the National Academy of Sciences]]|last1=Bonatto|first1=Sandro L. |last2=Salzano|first2=Francisco M. |name-list-style=amp |volume=94|issue=5|pages=1866–1871|year=1997|pmc=20009|pmid=9050871|bibcode=1997PNAS...94.1866B|doi-access=free}}</ref><ref name=Cinq1979>{{cite journal|last=Cinq-Mars |first=J.|date=1979 |title=Bluefish Cave 1: A Late Pleistocene Eastern Beringian Cave Deposit in the Northern Yukon |journal=[[Canadian Journal of Archaeology]] |issue=3|pages=1–32|jstor=41102194}}</ref><ref name=Bonnichsen1978>{{cite book |last=Bonnichsen|first=Robson|chapter=Critical arguments for Pleistocene artifacts from the Old Crow basin, Yukon: a preliminary statement |pages=102–118 |editor=Alan L. Bryan |title=Early Man in America from a Circum-Pacific Perspective |location=Edmonton |publisher=Archaeological Researches International Department of Anthropology, [[University of Alberta]] |series=Occasional Papers No. 1 |date=1978 |isbn=9780888649997|chapter-url=https://books.google.com/books?id=JY10AAAAMAAJ&pg=PA102}}</ref> sau đó là làn sóng nhập cư thứ hai muộn hơn nhiều.<ref name=SpencerWells2 /><ref name="Bradshaw">{{cite web |url=http://www.bradshawfoundation.com/stephenoppenheimer/index.php|title=Journey of mankind|work=Bradshaw Foundation |first=Stephen |last=Oppenheimer}}</ref>
Thứ hai là ''lý thuyết niên đại dài'', đề xuất rằng nhóm người đầu tiên vào Beringia, bao gồm cả những vùng không có băng của Alaska, ở một thời điểm sớm hơn nhiều, có lẽ là 40.000 năm trước,[33][34][35] sau đó là làn sóng nhập cư thứ hai muộn hơn nhiều.[31][36]


''Lý thuyết Clovis đầu tiên'', thống trị suy nghĩ về nhân học Thế giới Mới trong phần lớn thế kỷ 20, đã bị thách thức bởi các bằng chứng niên đại mới đây của các di chỉ khảo cổ ở châu Mỹ trước 13.000 năm trước vào những năm 2000.[15][16][17][37][38]
''Lý thuyết Clovis đầu tiên'', thống trị suy nghĩ về nhân học Thế giới Mới trong phần lớn thế kỷ 20, đã bị thách thức bởi các bằng chứng niên đại mới đây của các di chỉ khảo cổ ở châu Mỹ trước 13.000 năm trước vào những năm 2000.<ref name=Geotimescorridor /><ref name=Jacksonetal1997 /><ref name=Mandryketal2001 /><ref name=Goodyear2005>{{cite book|last=Goodyear|first=Albert C.|editor1=Robson Bonnichsen |editor2=Bradley T. Lepper |editor3=Michael R. Waters |editor4=Dennis Stanford |display-editors=1|title=Paleoamerican Origins: Beyond Clovis|chapter-url=https://scholarcommons.sc.edu/cgi/viewcontent.cgi?referer=&httpsredir=1&article=1026&context=sciaa_staffpub|series=Peopling of the Americas|year=2005|publisher=Center for the Study of the First Americans, Texas A&M University|isbn=978-1-60344-812-3|pages=103–112|chapter=Evidence of Pre-Clovis sites in the eastern United States}}</ref><ref name=Dillehay2000>{{cite book|last=Dillehay|first=Thomas|title=The Settlement of the Americas: A New Prehistory|date=2000|publisher=Basic Books|location=New York|isbn=978-0-465-07669-7|url=https://archive.org/details/settlementofamer00dill_0}}</ref>


Các di chỉ khảo cổ ở châu Mỹ có niên đại lâu đời nhất đã được chấp nhận rộng rãi đều có tuổi tầm 15.000 năm. Chúng bao gồm [[Di chỉ phức hợp Buttermilk Creek]] ở [[Texas]],[39] [[di chỉ Meadowcroft Rockshelter]] ở [[Pennsylvania]] và di chỉ [[Monte Verde]] ở miền nam [[Chile]].[38] Bằng chứng khảo cổ học về người tiền Clovis xác định Di chỉ Topper Nam Carolina đã 16.000 năm tuổi, vào thời điểm mà cực đại của băng hà khiến đường bờ biển thấp hơn theo lý thuyết.
Các di chỉ khảo cổ ở châu Mỹ có niên đại lâu đời nhất đã được chấp nhận rộng rãi đều có tuổi tầm 15.000 năm. Chúng bao gồm [[Di chỉ phức hợp Buttermilk Creek]] ở [[Texas]],<ref>{{Cite news|url=https://www.washingtonpost.com/science/2018/10/24/continents-oldest-spear-points-provide-new-clues-about-first-americans/|title=Continent's oldest spear points provide new clues about the first Americans|last=Kaplan|first=Sarah|work=Washington Post|date=October 24, 2018}}</ref> [[di chỉ Meadowcroft Rockshelter]] ở [[Pennsylvania]] và di chỉ [[Monte Verde]] ở miền nam [[Chile]].<ref name=Dillehay2000 /> Bằng chứng khảo cổ học về người tiền Clovis xác định Di chỉ Topper Nam Carolina đã 16.000 năm tuổi, vào thời điểm mà cực đại của băng hà khiến đường bờ biển thấp hơn theo lý thuyết.


Người ta thường cho rằng một hành lang không có băng, ở khu vực ngày nay là Tây Canada, sẽ cho phép con người di cư trước [[thế Toàn Tan]], nhưng một nghiên cứu năm 2016 đã lập luận chống lại điều này, chỉ ra rằng sự lan tỏa dân số ở Bắc Mỹ qua một hành lang như vậy không có khả năng xác định niên đại đáng kể trước nền văn hóa Clovis sớm nhất. Nghiên cứu kết luận rằng hành lang không có băng ở khu vực ngày nay là [[Alberta]] và [[British Columbia]] "đã dần bị xâm chiếm bởi rừng thông chi phối bởi [[vân sam]] và thông" và "người Clovis có lẽ đến từ phía Nam chứ không phải phía Bắc, có lẽ để lần theo các loài động vật hoang dã như bò rừng".[40][41] Một giả thuyết thay thế cho sự lan tỏa con người ở châu Mỹ là di cư bằng đường ven biển, có lẽ khả thi dọc theo đường bờ biển đã tan băng (thời hiện đại vùng này đã bị ngập nước) của vùng [[Tây Bắc Thái Bình Dương]] từ khoảng 16.000 năm trước.
Người ta thường cho rằng một hành lang không có băng, ở khu vực ngày nay là Tây Canada, sẽ cho phép con người di cư trước [[thế Toàn Tan]], nhưng một nghiên cứu năm 2016 đã lập luận chống lại điều này, chỉ ra rằng sự lan tỏa dân số ở Bắc Mỹ qua một hành lang như vậy không có khả năng xác định niên đại đáng kể trước nền văn hóa Clovis sớm nhất. Nghiên cứu kết luận rằng hành lang không có băng ở khu vực ngày nay là [[Alberta]] và [[British Columbia]] "đã dần bị xâm chiếm bởi rừng thông chi phối bởi [[vân sam]] và thông" và "người Clovis có lẽ đến từ phía Nam chứ không phải phía Bắc, có lẽ để lần theo các loài động vật hoang dã như bò rừng bison".<ref name="Nature-landbridge_2016">{{cite journal|date=August 10, 2016 |journal=Nature |doi=10.1038/nature19085 |pmid=27509852 |title=Postglacial viability and colonization in North America's ice-free corridor |bibcode=2016Natur.537...45P |first1=Mikkel W. |last1=Pedersen|first2=Anthony |last2=Ruter|first3=Charles |last3=Schweger|first4=Harvey |last4=Friebe|first5=Richard A. |last5=Staff|first6=Kristian K. |last6=Kjeldsen|first7=Marie L.Z. |last7=Mendoza|first8=Alwynne B. |last8=Beaudoin|first9=Cynthia |last9=Zutter|first10=Nicolaj K. |last10=Larsen |first11=Ben A. |last11=Potter |first12=Rasmus |last12=Nielsen |first13=Rebecca A. |last13=Rainville |first14=Ludovic |last14=Orlando |first15=David J. |last15=Meltzer |first16=Kurt H. |last16=Kjær |first17=Eske |last17=Willerslev |volume=537 |issue=7618 |pages=45–49 |s2cid=4450936 |url=https://ora.ox.ac.uk/objects/uuid:0463dc92-986c-49c7-9ee2-ec85dfe1e62f |display-authors=3}}</ref><ref>{{cite news |title=Popular theory on how humans populated North America can't be right, study shows: Ice-free corridor through Alberta, B.C. not usable by humans until after Clovis people arrived |first=Emily |last=Chung|url=http://www.cbc.ca/news/technology/ice-free-corridor-north-americans-1.3715397 |work=[[CBC News]] |date=August 10, 2016 |access-date=August 10, 2016}}</ref> Một giả thuyết thay thế cho sự lan tỏa con người ở châu Mỹ là di cư bằng đường ven biển, có lẽ khả thi dọc theo đường bờ biển đã tan băng (thời hiện đại vùng này đã bị ngập nước) của vùng [[Tây Bắc Thái Bình Dương]] từ khoảng 16.000 năm trước.


====Bằng chứng về sự hiện diện của con người tiền LGM====
====Bằng chứng về sự hiện diện của con người tiền LGM====
[[File:Map of gene flow in and out of Beringia.jpg|right|thumb|upright=1.25|Figure 2. Schematic illustration of maternal (mtDNA) gene-flow in and out of Beringia (long chronology, single source model).|alt=Schematic illustration of maternal geneflow in and out of Beringia.Colours of the arrows correspond to approximate timing of the events and are decoded in the coloured time-bar. The initial peopling of Berinigia (depicted in light yellow) was followed by a standstill after which the ancestors of indigenous Americans spread swiftly all over the New World, while some of the Beringian maternal lineages–C1a-spread westwards. More recent (shown in green) genetic exchange is manifested by back-migration of A2a into Siberia and the spread of D2a into north-eastern America that post-dated the initial peopling of the New World.]]
Sự di cư của con người tiền LGM qua Beringia vào châu Mỹ đã được đề xuất để giải thích niên đại cực kỳ cổ của các di chỉ ở châu Mỹ như [[Bluefish Caves]][34] và [[Old Crow Flats]] [35] ở [[Lãnh thổ Yukon]], và [[Meadowcroft Rock Shelter]] ở [[Pennsylvania]].[31][36]


Sự di cư của con người tiền LGM qua Beringia vào châu Mỹ đã được đề xuất để giải thích niên đại cực kỳ cổ của các di chỉ ở châu Mỹ như [[Bluefish Caves]]<ref name=Cinq1979 /> và [[Old Crow Flats]]<ref name=Bonnichsen1978 /> ở [[Lãnh thổ Yukon]], và [[Meadowcroft Rock Shelter]] ở [[Pennsylvania]].<ref name=SpencerWells2 /><ref name=Bradshaw />
Tại Old Crow Flats, người ta đã tìm thấy xương voi ma mút bị gãy theo kiểu mẫu đặc biệt ám chỉ hoạt động mổ thịt của con người. Xác định niên đại bằng đồng vị cacbon dao động trong khoảng 25.000 đến 40.000 BP. Ngoài ra, các viên đá nhỏ cũng được tìm thấy quanh khu vực, cõ lẽ được dùng để sản xuất công cụ. [43]


Tại Old Crow Flats, người ta đã tìm thấy xương voi ma mút bị gãy theo kiểu mẫu đặc biệt ám chỉ hoạt động mổ thịt của con người. Xác định niên đại bằng đồng vị cacbon dao động trong khoảng 25.000 đến 40.000 BP. Ngoài ra, các viên đá nhỏ cũng được tìm thấy quanh khu vực, cõ lẽ được dùng để sản xuất công cụ.<ref>{{cite encyclopedia |last=Morlan |first=Richard E. |title=Old Crow Basin |encyclopedia=[[The Canadian Encyclopedia]] |date=March 4, 2015 |publisher=[[Historica Canada]] |url=https://www.thecanadianencyclopedia.ca/en/article/old-crow-basin}}</ref>
Các giải thích về vết chặt thịt và sự liên kết địa chất của xương tại các di chỉ Bluefish Caves, Old Crow Flats và di chỉ Bonnet Plume có liên quan, bị đưa vào vòng nghi vấn. [44]


Các giải thích về vết chặt thịt và sự liên kết địa chất của xương tại các di chỉ Bluefish Caves, Old Crow Flats và di chỉ Bonnet Plume có liên quan, bị đưa vào vòng nghi vấn.<ref name="Gibbon, Guy E 1998">{{cite encyclopedia |last=Bryant |first=Vaughn M., Jr. |title=Pre-Clovis |editor=Guy Gibbon |display-editors=etal |year=1998 |encyclopedia=Archaeology of Prehistoric Native America: An Encyclopedia |series=Garland reference library of the humanities |pages=682–683 |volume=1537 |isbn=978-0-8153-0725-9 |url=https://books.google.com/books?id=_0u2y_SVnmoC&pg=PA682}}</ref>
Ngoài các di chỉ còn bị tranh cãi, bằng chứng thêm cho sự hiện diện của con người tiền LGM đã được tìm thấy trong bản ghi trầm tích hồ ở phía bắc Alaska. Các phân tích dẫu vết sinh học và vi hóa thạch của lớp [[trầm tích]] từ hồ E5 và hồ Burial cho thấy sự hiện diện của con người ở phía đông Beringia sớm nhất là 34.000 năm trước.[28][29] Những phân tích này thực sự hấp dẫn ở chỗ chúng chứng thực những suy luận được đưa ra ở Bluefish Caves và Old Crow Flats.


Ngoài các di chỉ còn bị tranh cãi, bằng chứng thêm cho sự hiện diện của con người tiền LGM đã được tìm thấy trong bản ghi trầm tích hồ ở phía bắc Alaska. Các phân tích dẫu vết sinh học và vi hóa thạch của lớp [[trầm tích]] từ hồ E5 và hồ Burial cho thấy sự hiện diện của con người ở phía đông Beringia sớm nhất là 34.000 năm trước.<ref name=Vachulaetal2020/><ref name=Vachulaetal2019/> Những phân tích này thực sự hấp dẫn ở chỗ chúng chứng thực những suy luận được đưa ra ở Bluefish Caves và Old Crow Flats.
Vào năm 2020, bằng chứng mới xuất hiện tại một di chỉ tiền LGM ở Bắc-Trung Mexico. [[Hang Chiquihuite]], một di chỉ khảo cổ ở Bang Zacatecas, có niên đại 26.000 năm TCN dựa trên nhiều đồ tạo tác bằng đá được phát hiện ở đó.[45]


Vào năm 2020, bằng chứng mới xuất hiện tại một di chỉ tiền LGM ở Bắc-Trung Mexico. [[Hang Chiquihuite]], một di chỉ khảo cổ ở Bang Zacatecas, có niên đại 26.000 năm TCN dựa trên nhiều đồ tạo tác bằng đá được phát hiện ở đó.<ref>{{cite journal |last1=Handwerk |first1=Brian |title=Discovery in Mexican Cave May Drastically Change the Known Timeline of Humans' Arrival to the Americas |journal=Smithsonian Magazine |date=22 July 2020 |url=https://www.smithsonianmag.com/science-nature/when-did-humans-reach-america-mexican-mountain-cave-artifacts-raise-new-questions-180975385/ |language=en}}</ref>
Sự hiện diện của con người tiền LGM ở Nam Mỹ một phần phụ thuộc vào niên đại của di chỉ Pedra Furada gây tranh cãi ở [[Piauí, Brazil]]. Một nghiên cứu năm 2003 xác định bằng chứng niên đại cho việc sử dụng lửa có kiểm soát trước 40.000 năm trước.[46] Bằng chứng tiếp tục được bổ sung từ hình thái xương của [[người phụ nữ Luzia]] mang gốc Austroloid. Cách giải thích này đã bị thách thức trong một đánh giá năm 2003, kết luận rằng các đặc điểm được đề cập cũng có thể phát sinh do sự trôi dạt di truyền.[47] Vào tháng 11 năm 2018, các nhà khoa học của [[Đại học São Paulo]] và [[Đại học Harvard]] đã công bố một nghiên cứu mâu thuẫn cho rằng Luzia mang gốc Australo-Melanesian. Áp dụng giải trình DNA, kết quả cho thấy Luzia hoàn toàn là người Amerindian (Mỹ Anh-điêng), về mặt di truyền.[48][49]


Sự hiện diện của con người tiền LGM ở Nam Mỹ một phần phụ thuộc vào niên đại của di chỉ Pedra Furada gây tranh cãi ở [[Piauí, Brazil]]. Một nghiên cứu năm 2003 xác định bằng chứng niên đại cho việc sử dụng lửa có kiểm soát trước 40.000 năm trước.<ref>{{Cite journal |doi=10.1016/S0277-3791(03)00205-1 |title=A revised chronology of the lowest occupation layer of Pedra Furada Rock Shelter, Piauı́, Brazil: The Pleistocene peopling of the Americas |journal=Quaternary Science Reviews|volume=22|issue=21–22|pages=2303–2310|year=2003|last1=Santos|first1= G.M|last2=Bird|first2=M.I|last3=Parenti|first3=F.|last4=Fifield|first4=L.K|last5=Guidon|first5=N.|last6=Hausladen|first6=P.A|display-authors=3 |bibcode=2003QSRv...22.2303S}}</ref> Bằng chứng tiếp tục được bổ sung từ hình thái xương của [[người phụ nữ Luzia]] mang gốc Austroloid. Cách giải thích này đã bị thách thức trong một đánh giá năm 2003, kết luận rằng các đặc điểm được đề cập cũng có thể phát sinh do sự trôi dạt di truyền.<ref>{{cite journal |last1=van Vark |first1=G.N. |last2=Kuizenga |first2=D. |last3=Williams |first3=F.L. |name-list-style=amp |title=Kennewick and Luzia: lessons from the European Upper Paleolithic |journal=[[American Journal of Physical Anthropology]] |volume=121 |issue=2 |pages=181–184; discussion 185–188 |date=June 2003 |pmid=12740961 |doi=10.1002/ajpa.10176}}<br>•{{nbsp}}{{cite journal |first1=Stuart J. |last1=Fiedel |year=2004 |title=The Kennewick Follies: 'New' Theories about the Peopling of the Americas |journal=[[Journal of Anthropological Research]] |volume=60 |issue=1 |pages=75–110 |jstor=3631009|doi=10.1086/jar.60.1.3631009 |s2cid=163722475 }}<br>•{{nbsp}}{{cite journal |last1=González-José |first1=R. |last2=Bortolini |first2=M.C. |last3=Santos |first3=F.R. |last4=Bonatto |first4=S.L. |name-list-style=amp|title=The peopling of America: craniofacial shape variation on a continental scale and its interpretation from an interdisciplinary view |journal=American Journal of Physical Anthropology |volume=137 |issue=2 |pages=175–187 |date=October 2008 |pmid=18481303 |doi=10.1002/ajpa.20854|s2cid=32748672 |url=https://semanticscholar.org/paper/548c11e06bf4064931b02c641819acc75777410b }}</ref> Vào tháng 11 năm 2018, các nhà khoa học của [[Đại học São Paulo]] và [[Đại học Harvard]] đã công bố một nghiên cứu mâu thuẫn cho rằng Luzia mang gốc Australo-Melanesian. Áp dụng giải trình DNA, kết quả cho thấy Luzia hoàn toàn là người Amerindian (Mỹ Anh-điêng), về mặt di truyền.<ref>{{cite journal |last1=Moreno-Mayar |first1=J. Víctor |last2=Vinner |first2=Lasse |last3=de Barros Damgaard |first3=Peter |last4=de la Fuente |first4=Constanza |last5=Chan |first5=Jeffrey |display-authors=4 |title=Early human dispersals within the Americas |journal=Science |date=7 December 2018 |volume=362 |issue=6419 |pages=eaav2621 |doi=10.1126/science.aav2621|pmid=30409807 |bibcode=2018Sci...362.2621M |doi-access=free }}</ref><ref>{{cite journal |last1=Posth |first1=Cosimo |last2=Nakatsuka |first2=Nathan |last3=Lazaridis |first3=Iosif |last4=Skoglund |first4=Pontus |last5=Mallick |first5=Swapan |display-authors=4 |title=Reconstructing the Deep Population History of Central and South America |journal=Cell |date=15 November 2018 |volume=175 |issue=5 |pages=1185–1197.e22 |doi=10.1016/j.cell.2018.10.027 |pmid=30415837 |pmc=6327247 |language=English |issn=0092-8674|doi-access=free }}</ref>
Tuổi của các hiện vật được xác định sớm nhất tại Meadowcroft đều nằm trong thời kỳ hậu LGM (13,8 nghìn – 18,5 nghìn BP).[37][50]


Tuổi của các hiện vật được xác định sớm nhất tại Meadowcroft đều nằm trong thời kỳ hậu LGM (13,8 nghìn – 18,5 nghìn BP).<ref name=Goodyear2005 /><ref name=Adovasioetal1990>{{cite journal |last1=Adovasio |first1=J. M |first2=J. |last2=Donahue |first3=R. |last3=Stuckenrath |name-list-style=amp|title=The Meadowcroft Rockshelter Rasdiocarbon Chronology 1975–1990 |journal=[[American Antiquity]] |volume=55|issue=2 |pages=348–354|year=1990 |doi=10.2307/281652|jstor=281652}}<br>•{{nbsp}}{{cite web |url=https://www.thoughtco.com/archaeological-dating-cal-bp-meaning-3971061 |title=What Does cal BP Mean? |last=Hirst |first=K. Kris |access-date=October 30, 2018 |date=October 23, 2017 |website=Thoughtco.com}}</ref>
Những viên đá có vẻ như được dùng làm búa và [[đe]] đã được tìm thấy ở miền nam California, tại di chỉ Cerutti Mastodon, có liên quan đến bộ xương voi răng mấu mà dường như đã được con người dùng qua. Bộ xương voi răng mấu được xác định niên đại bằng đồng vị phóng xạ thorium-230/uranium, sử dụng các mô hình xác định niên đại khuếch tán – hấp phụ – phân rã, kết luận rằng nó tồn tại cách đây 130,7 ± 9,4 nghìn năm.[51] Không có bộ xương người nào được tìm thấy và khiến các chuyên gia rất bối rối; Những tuyên bố về công cụ bằng đá và quá trình xử lý xương được Giáo sư nhân học Tom Dillehay coi là "không hợp lý".[52]

Những viên đá có vẻ như được dùng làm búa và [[đe]] đã được tìm thấy ở miền nam California, tại di chỉ Cerutti Mastodon, có liên quan đến bộ xương voi răng mấu mà dường như đã được con người dùng qua. Bộ xương voi răng mấu được xác định niên đại bằng đồng vị phóng xạ thorium-230/uranium, sử dụng các mô hình xác định niên đại khuếch tán – hấp phụ – phân rã, kết luận rằng nó tồn tại cách đây 130,7 ± 9,4 nghìn năm.<ref>{{cite journal|last1=Holen|first1=Steven R.|last2=Deméré|first2=Thomas A.|last3=Fisher|first3=Daniel C.|last4=Fullagar|first4=Richard|last5=Paces|first5=James B.|last6=Jefferson|first6=George T.|last7=Beeton|first7=Jared M.|last8=Cerutti|first8=Richard A.|last9=Rountrey|first9=Adam N.|last10=Vescera|first10=Lawrence|last11=Holen|first11=Kathleen A.|display-authors=3|title=A 130,000-year-old archaeological site in southern California, USA|journal=Nature|volume=544|issue=7651|pages=479–483|doi=10.1038/nature22065|pmid=28447646|bibcode=2017Natur.544..479H|year=2017}}</ref> Không có bộ xương người nào được tìm thấy và khiến các chuyên gia rất bối rối; Những tuyên bố về công cụ bằng đá và quá trình xử lý xương được Giáo sư nhân học Tom Dillehay coi là "không hợp lý".<ref name=Rincon>{{cite news|last1=Rincon|first1=Paul|title=First Americans claim sparks controversy|url=https://www.bbc.co.uk/news/science-environment-39710311|work=BBC News|access-date=30 April 2017|date=26 April 2017 |quote=[[Michael R. Waters]] commented that "To demonstrate such early occupation of the Americas requires the presence of unequivocal stone artifacts. There are no unequivocal stone tools associated with the bones... this site is likely just an interesting paleontological locality." [[Chris Stringer]] said that "extraordinary claims require extraordinary evidence – each aspect requires the strongest scrutiny," adding that "High and concentrated forces must have been required to smash the thickest mastodon bones, and the low energy depositional environment seemingly provides no obvious alternative to humans using the heavy cobbles found with the bones.}}</ref>


==Chú thích thuật ngữ==
==Chú thích thuật ngữ==

Phiên bản lúc 17:18, ngày 21 tháng 9 năm 2021

Bản đồ các di chỉ khảo cổ được tính niên đại có độ tin cậy cao nhất, 24–13 ka ở Bắc Mỹ and 22–11 ka ở Nam Mỹ.

Cuộc định cư châu Mỹ (thuật ngữ tiếng Anh: Settlement of the Americas) được định nghĩa là khoảng thời gian bắt đầu từ khi các nhóm người săn bắt hái lượm đồ đá cũ tiến vào Bắc Mỹ từ thảo nguyên Voi ma mút Bắc Á thông qua cầu nối liên lục địa Beringia, lộ ra giữa đông bắc Siberiatây Alaska bởi mực nước biển toàn cầu giảm sút trong thời kỳ Cực đại Băng hà cuối cùng (26.000 đến 19.000 năm trước).[1] Các quần thể người này tiếp tục bành trướng xuống phía nam Dải băng Laurentide rồi xâm chiếm toàn bộ Bắc và Nam Mỹ khoảng 14.000 năm trước.[2][3][4][5] Các quần thể định cư sớm nhất ở châu Mỹ (khoảng trước 10.000 năm trước) được gọi chung là người Anh-điêng cổ.

Sự sinh sôi của con người ở châu Mỹ (peopling of the Americas) là một câu hỏi còn bị bỏ ngỏ. Tuy đã có những tiến bộ vượt bậc trong các ngành khảo cổ học, địa chất học thế Canh Tân, nhân học sinh họcphân tích ADN nhằm làm sáng tỏ câu trả lời, nhiều câu hỏi quan trọng vẫn chưa có lời giải đáp thỏa đáng.[6] Mặc dù có sự thống nhất rằng châu Mỹ được định cư bởi người đến từ châu Á, nhưng mô hình di cư, thời gian và (các) nơi xuất xứ ở Á-Âu của các dân tộc này vẫn còn là ẩn số.[3]

Các mô hình di cư thời thượng suy đoán các khung thời gian khác nhau cho cuộc di cư của người châu Á qua eo biển Bering và sự phân tán sau đó của quần thể sáng lập (founding population) trên khắp lục địa.[7] Các dân tộc bản địa ở châu Mỹ có liên kết với các dân tộc Siberia qua các yếu tố ngôn ngữ, sự phân bố nhóm máu và thành phần di truyền được phản ánh bởi dữ liệu phân tử, chẳng hạn như ADN.[8][9]

"Lý thuyết đến đầu tiên của Clovis" những năm 1950 cho rằng văn hóa Clovis là nền văn hóa sớm nhất của con người ở châu Mỹ, từ khoảng 13.000 năm trước; bằng chứng về các nền văn hóa tiền Clovis đã được thu thập từ năm 2000, đẩy lùi thời điểm định cư của con người về xa hơn nữa.[10][11][12] Một nghiên cứu được công bố vào năm 2021 xác định niên đại xương động vật, chủ yếu là xương thỏ gắn với công cụ đá của con người, được phát hiện ở hang Coxcatlan, có niên đại rất cổ từ 33.448 đến 28.279 năm. Những phát hiện kiểu này chỉ ra rằng sự xuất hiện của con người ở châu Mỹ có lẽ đã xảy ra trước cả Cực đại băng hà cuối cùng.[13]

Môi trường kỷ băng hà

Sự trồi lên và nhấn chìm của cầu Beringia

Cầu lục địa Beringia bị nhấn chìm do mực nước biển chấn tĩnh dâng lên hậu-Cực đại băng hà cuối cùng (LGM)

Trong giai đoạn băng hà Wisconsin, nước của đại dương trên Trái đất bị đóng băng tùy theo mức độ phụ thuộc từng khoảng thời gian. Khi nước tích tụ trong các sông băng, mực nước biển toàn cầu bị giảm xuống. Sự biến đổi của mực nước biển theo thời gian đã được tái tạo bằng phương pháp phân tích đồng vị oxy của lõi biển sâu, xác định niên đại của các thềm biển và lấy mẫu đồng vị oxy có độ phân giải cao từ các lưu vực đại dương và các chỏm băng hiện đại. Mực nước biển giảm khoảng 60 đến 120 mét so với mực nước biển ngày nay bắt đầu từ khoảng 30.000 BP[chú thích 1], đã làm lộ cây cầu Beringia rộng lớn nối liền Siberia với Alaska.[14] Với sự gia tăng của mực nước biển theo sau Cực đại băng hà cuối cùng (LGM), cầu Beringia một lần nữa bị nhấn chìm. Các ước tính về lần nhấn chìm cuối cùng của Beringia hoàn toàn dựa trên độ sâu hiện tại của eo biển Bering và đường cong mực nước biển chấn tĩnh[chú thích 2] ước tính sự kiện diễn ra vào khoảng 11.000 BP (Hình 1). Nghiên cứu đang tiến triển nhằm phục dựng lại cổ sinh học Beringia trong giai đoạn tan băng có lẽ sẽ thay đổi ước tính đó và khả năng cây cầu bị nhấn chìm sớm hơn sẽ hạn chế hơn nữa các mô hình di cư của con người vào Bắc Mỹ.[14]

Các sông băng

Sự tiếp diễn của Cực đại băng hà cuối cùng sau 30.000 BP tạo điều kiện cho ​​sự bành trướng của các sông băng trên núi cao và các tảng băng lục địa có lẽ đã chặn các tuyến đường di cư ra khỏi Beringia. Vào khoảng năm 21.000 TCN và hàng nghìn năm trước đó, các dải băng Cordilleran và Laurentide hợp nhất ở phía đông của Dãy núi Rocky, bịt con đường di cư tiềm năng vào trung tâm Bắc Mỹ.[15][16][17] Các sông băng núi cao[chú thích 3] ở các dãy núi ven biển và bán đảo Alaska đã cô lập phần nội địa của Beringia khỏi bờ biển Thái Bình Dương. Các sông băng núi cao ven biển và các dải băng Cordilleran hợp nhất thành các sông băng chân núi [chú thích 4] bao phủ các dải đất rộng lớn của đường bờ biển đến tận phía nam Đảo Vancouver và tạo thành một dải băng tại eo biển Juan de Fuca vào 15.000 14C BP (18.000 cal[chú thích 5] BP).[18][19] Các sông băng núi cao ven biển bắt đầu triệt thoái vào khoảng 19.000 cal BP[20] trong khi dải băng Cordilleran tiếp tục tiến vào vùng đất thấp Puget cho đến 14.000 14C BP (16.800 cal BP).[19] Ngay cả phạm vi lớn nhất của băng ven biển, refugia [chú thích 6] không đóng băng vẫn tồn tại trên các hòn đảo ngày nay, hỗ trợ các loài động vật có vú trên cạn và biển.[17] Khi quá trình tan băng diễn ra, refugia mở rộng cho đến khi bờ biển không còn băng khoảng 15.000 cal BP.[17] Sự rút lui của các sông băng trên Bán đảo Alaska đã tạo điều kiện cho việc tiếp cận bờ biển Thái Bình Dương vào khoảng 17.000 cal BP.[21] Rào cản băng giữa nội địa Alaska và bờ biển Thái Bình Dương tan vỡ bắt đầu vào khoảng 13.500 14C (16.200 cal) BP.[18] Hành lang không có băng dẫn vào nội địa Bắc Mỹ mở ra vào khoảng 13.000-12.000 BP.[15][16][17] Băng hà phía đông Siberia trong thời kỳ LGM chỉ giới hạn ở các sông băng trên núi cao và thung lũng trong các dãy núi, không cản trở còn đường vào giữa Siberia và Beringia.[14]

Khí hậu và môi trường sinh học

Cổ khí hậu và thảm thực vật của miền đông Siberia và Alaska trong giai đoạn băng hà Wisconsin được suy ra từ dữ liệu đồng vị oxy có độ phân giải cao và địa tầng phấn hoa.[14][22][23] Trước Cực đại băng hà cuối cùng, khí hậu miền đông Siberia dao động giữa các điều kiện gần với điều kiện ngày nay và thời kỳ lạnh hơn. Các chu kỳ ấm trước LGM ở Bắc Cực Siberia kích thích ​​sự phát triển mạnh mẽ của động vật lớn.[14] Bản ghi đồng vị oxy từ Mũ băng Greenland chỉ ra rằng những chu kỳ này sau khoảng 45,000 BP kéo dài có thể lên đến hàng trăm hoặc từ một đến hai nghìn năm, với thời gian lạnh giá cực đại bắt đầu vào khoảng 32,000 cal BP.[14] Bản ghi phấn hoa từ Hồ Elikchan, phía bắc Biển Okhotsk, cho thấy sự thay đổi rõ rệt từ phấn hoa cây và cây bụi sang phấn hoa thảo mộc trước năm 26,000 14C TCN, khi lãnh nguyên thảo mộc thay thế rừng cây và thảo nguyên cây bụi thời kỳ LGM.[14] Một bản ghi tương tự về phấn hoa cây/bụi bị thay thế bởi phấn hoa thảo mộc trong LGM đã được thu thập gần sông Kolyma ở Bắc Cực Siberia.[23] Giả thuyết cho rằng các khu vực phía bắc của Siberia bị bỏ hoang do lạnh đi nhanh chóng hoặc sự rút lui của các loài thú để săn khi LGM khởi phát đã được đề xuất để lý giải cho hiện tượng thiếu di chỉ khảo cổ ở khu vực này trong LGM.[23][24] Bản ghi phấn hoa phía Alaska cho thấy sự thay đổi giữa các vùng lãnh nguyên thảo mộc/ cây bụi và lãnh nguyên cây bụi trước LGM, cho thấy các giai đoạn ấm lên ít dồn dập hơn so với những giai đoạn ấm cho phép rừng cây phát triển ở phía Siberia. Đa dạng nhưng không nhất thiết phải phong phú, các động vật lớn sinh sống ở những khu vực đó. Lãnh nguyên thảo mộc chiếm ưu thế trong suốt thời kỳ LGM nhờ điều kiện lạnh và khô.[22]

Môi trường ven biển trong Cực đại băng hà cuối cùng rất phức tạp. Mực nước biển hạ thấp và một chỗ phình đẳng áp cân bằng với chỗ lõm bên dưới Lớp băng Cordilleran, làm lộ ra thềm lục địa và hình thành một đồng bằng ven biển.[25] Trong khi phần lớn đồng bằng ven biển bị bao phủ bởi các sông băng piedmont, các loài thú sống trên cạn không bị đóng băng đã được xác định tại Haida Gwaii, Đảo Prince of Wales và các đảo bên ngoài Quần đảo Alexander.[22] Đồng bằng ven biển bấy giờ đang bị nhấn chìm có tiềm năng tạo ra nhiều refugia hơn.[22] Dữ liệu về phấn hoa cho thấy thảm thực vật chi phối bởi lãnh nguyên cây cỏ/cây bụi ở các khu vực không có băng, với một số rừng cây ở phía nam của dãy băng Cordilleran.[22] Môi trường biển ven biển vẫn được duy trì hiệu quả, được chỉ ra từ các hóa thạch động vật chân vây.[25] Các rừng tảo bẹ có năng suất cao ở những vùng biển cạn có đá sẽ là một tuyến đường di cư hiệu quả cho con người .[26][27] Việc tái tạo đường bờ biển phía nam Beringia cũng cho thấy tiềm năng của một môi trường ven biển có năng suất cao.[27]

Thay đổi môi trường trong quá trình tan băng

Dữ liệu về phấn hoa cho thấy thời kỳ ấm áp lên đến đỉnh điểm từ 14k đến 11k 14C BP (17k-13k cal BP), sau đó là sự nguội lạnh trong khoảng 11k-10k 14C BP (13k-11.5k cal BP).[25] Các khu vực ven biển tan băng nhanh chóng khi các sông băng núi cao ven biển rồi các dải băng Cordilleran dần rút ​​lui. Cuộc thoái trào này được đẩy nhanh khi mực nước biển dâng cao và làm trôi các mối băng. Người ta ước tính rằng phạm vi bờ biển tan băng hoàn toàn trong khoảng từ 16,000[25] đến 15,000[17] BP. Các sinh vật biển cận duyên hải xâm thực ven bờ khi nước đại dương thay thế nước băng. Cuộc thay thế lãnh nguyên thảo mộc/cây bụi bằng các rừng lá kim tiến triển từ 12,4 nghìn 14C BP (15 nghìn BP) ở phía bắc Haida Gwaii. Mực nước biển dâng cao gây ra lũ lụt.[25]

Các tảng băng Cordilleran và Laurentide trong đất liền rút đi chậm hơn so với ven biển. Hành lang tan băng không mở ra cho đến sau 13k-12k cal BP.[15] [16][17] Môi trường ban đầu của hành lang không có băng bị chi phối bởi dòng chảy băng hà và nước tan, với các hồ nước có đê băng và lũ lụt định kỳ do việc giải phóng nước tan băng.[15] Năng suất sinh học của vùng tan băng dần khôi phục chậm chạp.[17] Khả năng hành lang tan băng sớm nhất để con người có thể đi qua được ước tính vào khoảng 11,5 nghìn cal BP.[17]

Rừng bạch dương phát triển trên lãnh nguyên thảo mộc cũ ở Beringia 14,3ka 14C BP (17k cal BP) thích nghi với điều kiện khí hâu mới, minh chứng cho năng suất sinh học tăng lên. [23]

Các phân tích về dấu ấn sinh học và vi sinh vật được bảo tồn trong trầm tích từ Hồ E5 và Hồ Burial phía bắc Alaska cho thấy loài người sơ khai đã đốt cảnh quan Beringia sớm nhất là 34.000 năm trước.[28][29] Các tác giả của những nghiên cứu này cho rằng lửa đã được sử dụng như một phương tiện để săn các động vật lớn.

Niên đại, lý do và nguồn di cư

*25,000 năm trước Beringia trong thời kỳ LGM *16–14,000 năm trước con người lan rộng ở châu Mỹ sau LGM

Cộng đồng khảo cổ học nói chung đồng ý rằng tổ tiên của các dân tộc bản địa châu Mỹ đã vào châu Mỹ cuối thời kỳ Cực đại băng hà cuối cùng (LGM), ngay sau 20.000 năm trước, với sự hiện diện khảo cổ học được xác định ngay sau 16.000 năm trước.

Niên đại

Vào đầu thế kỷ 21, các mô hình về niên đại di cư được chia thành hai cách tiếp cận chính.[28][29]

Đầu tiên là lý thuyết niên đại ngắn, rằng cuộc di cư đầu tiên xảy ra sau Cực đại băng hà cuối cùng, đã suy giảm sau khoảng 19.000 năm trước,[20] và sau đó là những làn sóng di dân liên tiếp.[30]

Thứ hai là lý thuyết niên đại dài, đề xuất rằng nhóm người đầu tiên vào Beringia, bao gồm cả những vùng không có băng của Alaska, ở một thời điểm sớm hơn nhiều, có lẽ là 40.000 năm trước,[31][32][33] sau đó là làn sóng nhập cư thứ hai muộn hơn nhiều.[29][34]

Lý thuyết Clovis đầu tiên, thống trị suy nghĩ về nhân học Thế giới Mới trong phần lớn thế kỷ 20, đã bị thách thức bởi các bằng chứng niên đại mới đây của các di chỉ khảo cổ ở châu Mỹ trước 13.000 năm trước vào những năm 2000.[15][16][17][35][36]

Các di chỉ khảo cổ ở châu Mỹ có niên đại lâu đời nhất đã được chấp nhận rộng rãi đều có tuổi tầm 15.000 năm. Chúng bao gồm Di chỉ phức hợp Buttermilk CreekTexas,[37] di chỉ Meadowcroft RockshelterPennsylvania và di chỉ Monte Verde ở miền nam Chile.[36] Bằng chứng khảo cổ học về người tiền Clovis xác định Di chỉ Topper Nam Carolina đã 16.000 năm tuổi, vào thời điểm mà cực đại của băng hà khiến đường bờ biển thấp hơn theo lý thuyết.

Người ta thường cho rằng một hành lang không có băng, ở khu vực ngày nay là Tây Canada, sẽ cho phép con người di cư trước thế Toàn Tan, nhưng một nghiên cứu năm 2016 đã lập luận chống lại điều này, chỉ ra rằng sự lan tỏa dân số ở Bắc Mỹ qua một hành lang như vậy không có khả năng xác định niên đại đáng kể trước nền văn hóa Clovis sớm nhất. Nghiên cứu kết luận rằng hành lang không có băng ở khu vực ngày nay là AlbertaBritish Columbia "đã dần bị xâm chiếm bởi rừng thông chi phối bởi vân sam và thông" và "người Clovis có lẽ đến từ phía Nam chứ không phải phía Bắc, có lẽ để lần theo các loài động vật hoang dã như bò rừng bison".[38][39] Một giả thuyết thay thế cho sự lan tỏa con người ở châu Mỹ là di cư bằng đường ven biển, có lẽ khả thi dọc theo đường bờ biển đã tan băng (thời hiện đại vùng này đã bị ngập nước) của vùng Tây Bắc Thái Bình Dương từ khoảng 16.000 năm trước.

Bằng chứng về sự hiện diện của con người tiền LGM

Schematic illustration of maternal geneflow in and out of Beringia.Colours of the arrows correspond to approximate timing of the events and are decoded in the coloured time-bar. The initial peopling of Berinigia (depicted in light yellow) was followed by a standstill after which the ancestors of indigenous Americans spread swiftly all over the New World, while some of the Beringian maternal lineages–C1a-spread westwards. More recent (shown in green) genetic exchange is manifested by back-migration of A2a into Siberia and the spread of D2a into north-eastern America that post-dated the initial peopling of the New World.
Figure 2. Schematic illustration of maternal (mtDNA) gene-flow in and out of Beringia (long chronology, single source model).

Sự di cư của con người tiền LGM qua Beringia vào châu Mỹ đã được đề xuất để giải thích niên đại cực kỳ cổ của các di chỉ ở châu Mỹ như Bluefish Caves[32]Old Crow Flats[33]Lãnh thổ Yukon, và Meadowcroft Rock ShelterPennsylvania.[29][34]

Tại Old Crow Flats, người ta đã tìm thấy xương voi ma mút bị gãy theo kiểu mẫu đặc biệt ám chỉ hoạt động mổ thịt của con người. Xác định niên đại bằng đồng vị cacbon dao động trong khoảng 25.000 đến 40.000 BP. Ngoài ra, các viên đá nhỏ cũng được tìm thấy quanh khu vực, cõ lẽ được dùng để sản xuất công cụ.[40]

Các giải thích về vết chặt thịt và sự liên kết địa chất của xương tại các di chỉ Bluefish Caves, Old Crow Flats và di chỉ Bonnet Plume có liên quan, bị đưa vào vòng nghi vấn.[41]

Ngoài các di chỉ còn bị tranh cãi, bằng chứng thêm cho sự hiện diện của con người tiền LGM đã được tìm thấy trong bản ghi trầm tích hồ ở phía bắc Alaska. Các phân tích dẫu vết sinh học và vi hóa thạch của lớp trầm tích từ hồ E5 và hồ Burial cho thấy sự hiện diện của con người ở phía đông Beringia sớm nhất là 34.000 năm trước.[42][43] Những phân tích này thực sự hấp dẫn ở chỗ chúng chứng thực những suy luận được đưa ra ở Bluefish Caves và Old Crow Flats.

Vào năm 2020, bằng chứng mới xuất hiện tại một di chỉ tiền LGM ở Bắc-Trung Mexico. Hang Chiquihuite, một di chỉ khảo cổ ở Bang Zacatecas, có niên đại 26.000 năm TCN dựa trên nhiều đồ tạo tác bằng đá được phát hiện ở đó.[44]

Sự hiện diện của con người tiền LGM ở Nam Mỹ một phần phụ thuộc vào niên đại của di chỉ Pedra Furada gây tranh cãi ở Piauí, Brazil. Một nghiên cứu năm 2003 xác định bằng chứng niên đại cho việc sử dụng lửa có kiểm soát trước 40.000 năm trước.[45] Bằng chứng tiếp tục được bổ sung từ hình thái xương của người phụ nữ Luzia mang gốc Austroloid. Cách giải thích này đã bị thách thức trong một đánh giá năm 2003, kết luận rằng các đặc điểm được đề cập cũng có thể phát sinh do sự trôi dạt di truyền.[46] Vào tháng 11 năm 2018, các nhà khoa học của Đại học São PauloĐại học Harvard đã công bố một nghiên cứu mâu thuẫn cho rằng Luzia mang gốc Australo-Melanesian. Áp dụng giải trình DNA, kết quả cho thấy Luzia hoàn toàn là người Amerindian (Mỹ Anh-điêng), về mặt di truyền.[47][48]

Tuổi của các hiện vật được xác định sớm nhất tại Meadowcroft đều nằm trong thời kỳ hậu LGM (13,8 nghìn – 18,5 nghìn BP).[35][49]

Những viên đá có vẻ như được dùng làm búa và đe đã được tìm thấy ở miền nam California, tại di chỉ Cerutti Mastodon, có liên quan đến bộ xương voi răng mấu mà dường như đã được con người dùng qua. Bộ xương voi răng mấu được xác định niên đại bằng đồng vị phóng xạ thorium-230/uranium, sử dụng các mô hình xác định niên đại khuếch tán – hấp phụ – phân rã, kết luận rằng nó tồn tại cách đây 130,7 ± 9,4 nghìn năm.[50] Không có bộ xương người nào được tìm thấy và khiến các chuyên gia rất bối rối; Những tuyên bố về công cụ bằng đá và quá trình xử lý xương được Giáo sư nhân học Tom Dillehay coi là "không hợp lý".[51]

Chú thích thuật ngữ

  1. ^ before present: trước hiện tại, lấy mốc là ngày 1 tháng 1 năm 1950 do thời điểm hiện tại luôn thay đổi
  2. ^ eustatic sea level: khoảng cách từ tâm Trái Đất đến mặt biển
  3. ^ alpine glacier: sông băng núi cao
  4. ^ piedmont glacier: sông băng chân núi, từ pied nghĩa là chân và mont nghĩa là núi
  5. ^ cal ở đây viết tắt cho calibration nghĩa là hiệu chỉnh. Thời gian ở đây được hiệu chỉnh bởi xác định niên đại bằng đồng vị cacbon
  6. ^ refugia: các cộng đồng động thực vật sống sót băng hà và đảm bảo diễn thế sinh thái

Tham khảo

  1. ^ Pringle, Heather (8 tháng 3 năm 2017). “What Happens When an Archaeologist Challenges Mainstream Scientific Thinking?”. Smithsonian.
  2. ^ Fagan, Brian M. & Durrani, Nadia (2016). World Prehistory: A Brief Introduction. Routledge. tr. 124. ISBN 978-1-317-34244-1.
  3. ^ a b Goebel, Ted; Waters, Michael R.; O'Rourke, Dennis H. (2008). “The Late Pleistocene dispersal of modern humans in the Americas” (PDF). Science. 319 (5869): 1497–1502. Bibcode:2008Sci...319.1497G. CiteSeerX 10.1.1.398.9315. doi:10.1126/science.1153569. PMID 18339930. S2CID 36149744. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2010.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  4. ^ Zimmer, Carl (3 tháng 1 năm 2018). “In the Bones of a Buried Child, Signs of a Massive Human Migration to the Americas”. The New York Times. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2018.
  5. ^ Moreno-Mayar, JV; Potter, BA; Vinner, L; và đồng nghiệp (2018). “Terminal Pleistocene Alaskan genome reveals first founding population of Native Americans” (PDF). Nature. 553 (7687): 203–207. Bibcode:2018Natur.553..203M. doi:10.1038/nature25173. PMID 29323294. S2CID 4454580.
  6. ^ Waguespack, Nicole (2012). “Early Paleoindians, from Colonization to Folsom”. Trong Timothy R. Pauketat (biên tập). The Oxford Handbook of North American Archaeology. Oxford University Press. tr. 86–95. ISBN 978-0-19-538011-8.
  7. ^ Kornfeld, Marcel & Politis, Gustavo G. (2014). “Into the Americas: The Earliest Hunter-Gatherers in an Empty Continent”. Trong Vicki Cummings; Peter Jordan & Marek Zvelebil (biên tập). The Oxford Handbook of the Archaeology and Anthropology of Hunter-Gatherers. Oxford University Press. tr. 406. ISBN 978-0-19-102526-6.
  8. ^ Ash, Patricia J. & Robinson, David J. (2011). The Emergence of Humans: An Exploration of the Evolutionary Timeline. John Wiley & Sons. tr. 289. ISBN 978-1-119-96424-7.
  9. ^ Roberts, Alice (2010). The Incredible Human Journey. A&C Black. tr. 101–103. ISBN 978-1-4088-1091-0.
  10. ^ Ardelean, Ciprian F.; Becerra-Valdivia, Lorena; Pedersen, Mikkel Winther; Schwenninger, Jean-Luc; Oviatt, Charles G.; Macías-Quintero, Juan I.; Arroyo-Cabrales, Joaquin; Sikora, Martin; Ocampo-Díaz, Yam Zul E.; Rubio-Cisneros, Igor I.; Watling, Jennifer G.; De Medeiros, Vanda B.; De Oliveira, Paulo E.; Barba-Pingarón, Luis; Ortiz-Butrón, Agustín; Blancas-Vázquez, Jorge; Rivera-González, Irán; Solís-Rosales, Corina; Rodríguez-Ceja, María; Gandy, Devlin A.; Navarro-Gutierrez, Zamara; de la Rosa-Díaz, Jesús J.; Huerta-Arellano, Vladimir; Marroquín-Fernández, Marco B.; Martínez-Riojas, L. Martin; López-Jiménez, Alejandro; Higham, Thomas; Willerslev, Eske (2020). “Evidence of human occupation in Mexico around the Last Glacial Maximum”. Nature. 584 (7819): 87–92. Bibcode:2020Natur.584...87A. doi:10.1038/s41586-020-2509-0. PMID 32699412. S2CID 220697089.
  11. ^ Becerra-Valdivia, Lorena; Higham, Thomas (2020). “The timing and effect of the earliest human arrivals in North America”. Nature. 584 (7819): 93–97. Bibcode:2020Natur.584...93B. doi:10.1038/s41586-020-2491-6. PMID 32699413. S2CID 220715918.
  12. ^ Gruhn, Ruth (22 tháng 7 năm 2020). “Evidence grows that peopling of the Americas began more than 20,000 years ago”. Nature. 584 (7819): 47–48. Bibcode:2020Natur.584...47G. doi:10.1038/d41586-020-02137-3. PMID 32699366. S2CID 220717778.
  13. ^ Somerville, Andrew D.; Casar, Isabel; Arroyo-Cabrales, Joaquín (2021). “New AMS Radiocarbon Ages from the Preceramic Levels of Coxcatlan Cave, Puebla, Mexico: A Pleistocene Occupation of the Tehuacan Valley?”. Latin American Antiquity. 32 (3): 612–626. doi:10.1017/laq.2021.26.
  14. ^ a b c d e f g Brigham-Grette, Julie; Lozhkin, Anatoly V.; Anderson, Patricia M. & Glushkova, Olga Y. (2004). “Paleoenvironmental Conditions in West Beringia Before the Last Glacial Maximum”. Trong D.B. Madsen (biên tập). Entering America: Northeast Asia and Beringia Before the Last Glacial Maximum. University of Utah Press. ISBN 978-0-87480-786-8.
  15. ^ a b c Jackson, Lionel E., Jr. & Wilson, Michael C. (tháng 2 năm 2004). “The Ice-Free Corridor Revisited”. Geotimes. American Geological Institute.
  16. ^ a b c Jackson, L.E. Jr.; Phillips, F.M.; Shimamura, K. & Little, E.C. (1997). “Cosmogenic 36Cl dating of the Foothills Erratics train, Alberta, Canada”. Geology. 25 (3): 195–198. Bibcode:1997Geo....25..195J. doi:10.1130/0091-7613(1997)025<0195:ccdotf>2.3.co;2.
  17. ^ a b c d e Mandryk, Carole A.S.; Josenhans, Heiner; Fedje, Daryl W. & Mathewes, Rolf W. (tháng 1 năm 2001). “Late Quaternary paleoenvironments of Northwestern North America: implications for inland versus coastal migration routes”. Quaternary Science Reviews. 20 (1): 301–314. Bibcode:2001QSRv...20..301M. doi:10.1016/s0277-3791(00)00115-3.
  18. ^ a b Dyke, A.S.; Moore, A. & Robertson, L. (2003). Deglaciation of North America (Bản báo cáo). Open File 1574. Geological Survey of Canada. doi:10.4095/214399.
  19. ^ a b Booth, Derek B.; Troost, Kathy Goetz; Clague, John J. & Waitt, Richard B. (2003). “The Cordilleran Ice Sheet”. The Quaternary Period in the United States. Developments in Quaternary Sciences. 1. tr. 17–43. doi:10.1016/S1571-0866(03)01002-9. ISBN 978-0-4445-1470-7.
  20. ^ a b Blaise, B.; Clague, J.J. & Mathewes, R.W. (1990). “Time of maximum Late Wisconsin glaciation, west coast of Canada”. Quaternary Research. 34 (3): 282–295. Bibcode:1990QuRes..34..282B. doi:10.1016/0033-5894(90)90041-i.
  21. ^ Misarti, Nicole; Finney, Bruce P.; Jordan, James W.; và đồng nghiệp (10 tháng 8 năm 2012). “Early retreat of the Alaska Peninsula Glacier Complex and the implications for coastal migrations of First Americans”. Quaternary Science Reviews. 48: 1–6. Bibcode:2012QSRv...48....1M. doi:10.1016/j.quascirev.2012.05.014.
  22. ^ a b c d e Clague, John J.; Mathewes, Rolf W. & Ager, Thomas A. (2004). “Environments of Northwestern North America before the Last Glacial Maximum”. Trong D.B. Madsen (biên tập). Entering America: Northeast Asia and Beringia Before the Last Glacial Maximum. University of Utah Press. ISBN 978-0-87480-786-8.
  23. ^ a b c Vasil'ev, Sergey A.; Kuzmin, Yaroslav V.; Orlova, Lyubov A. & Dementiev, Vyacheslav N. (2002). “Radiocarbon-based chronology of the Paleolithic in Siberia and its relevance to the peopling of the New World”. Radiocarbon. 44 (2): 503–530. doi:10.1017/s0033822200031878.
  24. ^ Graf, Kelly E. (2009). “Modern human colonization of the mammoth steppe: a view from south-central Siberia” (PDF). Trong Marta Camps; Parth Chauhan (biên tập). Sourcebook of Paleolithic Transitions. Springer. tr. 479–501. doi:10.1007/978-0-387-76487-0_32. ISBN 978-0-387-76478-8.
  25. ^ a b Fedje, Daryl W.; Mackie, Quentin; Dixon, E. James & Heaton, Timothy H. (2004). “Late Wisconsin Environment and Archaeological Visibility along the Northern Northwest Coast”. Trong D.B. Madsen (biên tập). Entering America: Northeast Asia and Beringia Before the Last Glacial Maximum. University of Utah Press. ISBN 978-0-87480-786-8.
  26. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Erlandson2011
  27. ^ a b Erlandson, Jon M.; Graham, Michael H.; Bourque, Bruce J.; và đồng nghiệp (2007). “The Kelp highway hypothesis: marine ecology, the coastal migration theory, and the peopling of the Americas”. The Journal of Island and Coastal Archaeology. 2 (2): 161–174. doi:10.1080/15564890701628612. S2CID 140188874.
  28. ^ White, Phillip M. (2006). American Indian chronology: chronologies of the American mosaic. Greenwood. tr. 1. ISBN 978-0-313-33820-5.
  29. ^ a b c Wells, Spencer & Read, Mark (2002). The Journey of Man - A Genetic Odyssey. Random House. tr. 138–140. ISBN 978-0-8129-7146-0.
  30. ^ Lovgren, Stefan (13 tháng 3 năm 2008). “Americas Settled 15,000 Years Ago, Study Says”. National Geographic.
  31. ^ Bonatto, Sandro L. & Salzano, Francisco M. (1997). “A single and early migration for the peopling of the Americas supported by mitochondrial DNA sequence data”. Proceedings of the National Academy of Sciences. 94 (5): 1866–1871. Bibcode:1997PNAS...94.1866B. doi:10.1073/pnas.94.5.1866. PMC 20009. PMID 9050871.
  32. ^ a b Cinq-Mars, J. (1979). “Bluefish Cave 1: A Late Pleistocene Eastern Beringian Cave Deposit in the Northern Yukon”. Canadian Journal of Archaeology (3): 1–32. JSTOR 41102194.
  33. ^ a b Bonnichsen, Robson (1978). “Critical arguments for Pleistocene artifacts from the Old Crow basin, Yukon: a preliminary statement”. Trong Alan L. Bryan (biên tập). Early Man in America from a Circum-Pacific Perspective. Occasional Papers No. 1. Edmonton: Archaeological Researches International Department of Anthropology, University of Alberta. tr. 102–118. ISBN 9780888649997.
  34. ^ a b Oppenheimer, Stephen. “Journey of mankind”. Bradshaw Foundation.
  35. ^ a b Goodyear, Albert C. (2005). “Evidence of Pre-Clovis sites in the eastern United States”. Trong Robson Bonnichsen; và đồng nghiệp (biên tập). Paleoamerican Origins: Beyond Clovis. Peopling of the Americas. Center for the Study of the First Americans, Texas A&M University. tr. 103–112. ISBN 978-1-60344-812-3.
  36. ^ a b Dillehay, Thomas (2000). The Settlement of the Americas: A New Prehistory. New York: Basic Books. ISBN 978-0-465-07669-7.
  37. ^ Kaplan, Sarah (24 tháng 10 năm 2018). “Continent's oldest spear points provide new clues about the first Americans”. Washington Post.
  38. ^ Pedersen, Mikkel W.; Ruter, Anthony; Schweger, Charles; và đồng nghiệp (10 tháng 8 năm 2016). “Postglacial viability and colonization in North America's ice-free corridor”. Nature. 537 (7618): 45–49. Bibcode:2016Natur.537...45P. doi:10.1038/nature19085. PMID 27509852. S2CID 4450936.
  39. ^ Chung, Emily (10 tháng 8 năm 2016). “Popular theory on how humans populated North America can't be right, study shows: Ice-free corridor through Alberta, B.C. not usable by humans until after Clovis people arrived”. CBC News. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2016.
  40. ^ Morlan, Richard E. (4 tháng 3 năm 2015). “Old Crow Basin”. The Canadian Encyclopedia. Historica Canada.
  41. ^ Bryant, Vaughn M., Jr. (1998). “Pre-Clovis”. Trong Guy Gibbon; và đồng nghiệp (biên tập). Archaeology of Prehistoric Native America: An Encyclopedia. Garland reference library of the humanities. 1537. tr. 682–683. ISBN 978-0-8153-0725-9.
  42. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Vachulaetal2020
  43. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Vachulaetal2019
  44. ^ Handwerk, Brian (22 tháng 7 năm 2020). “Discovery in Mexican Cave May Drastically Change the Known Timeline of Humans' Arrival to the Americas”. Smithsonian Magazine (bằng tiếng Anh).
  45. ^ Santos, G.M; Bird, M.I; Parenti, F.; và đồng nghiệp (2003). “A revised chronology of the lowest occupation layer of Pedra Furada Rock Shelter, Piauı́, Brazil: The Pleistocene peopling of the Americas”. Quaternary Science Reviews. 22 (21–22): 2303–2310. Bibcode:2003QSRv...22.2303S. doi:10.1016/S0277-3791(03)00205-1.
  46. ^ van Vark, G.N.; Kuizenga, D. & Williams, F.L. (tháng 6 năm 2003). “Kennewick and Luzia: lessons from the European Upper Paleolithic”. American Journal of Physical Anthropology. 121 (2): 181–184, discussion 185–188. doi:10.1002/ajpa.10176. PMID 12740961.
     Fiedel, Stuart J. (2004). “The Kennewick Follies: 'New' Theories about the Peopling of the Americas”. Journal of Anthropological Research. 60 (1): 75–110. doi:10.1086/jar.60.1.3631009. JSTOR 3631009. S2CID 163722475.
     González-José, R.; Bortolini, M.C.; Santos, F.R. & Bonatto, S.L. (tháng 10 năm 2008). “The peopling of America: craniofacial shape variation on a continental scale and its interpretation from an interdisciplinary view”. American Journal of Physical Anthropology. 137 (2): 175–187. doi:10.1002/ajpa.20854. PMID 18481303. S2CID 32748672.
  47. ^ Moreno-Mayar, J. Víctor; Vinner, Lasse; de Barros Damgaard, Peter; de la Fuente, Constanza; và đồng nghiệp (7 tháng 12 năm 2018). “Early human dispersals within the Americas”. Science. 362 (6419): eaav2621. Bibcode:2018Sci...362.2621M. doi:10.1126/science.aav2621. PMID 30409807.
  48. ^ Posth, Cosimo; Nakatsuka, Nathan; Lazaridis, Iosif; Skoglund, Pontus; và đồng nghiệp (15 tháng 11 năm 2018). “Reconstructing the Deep Population History of Central and South America”. Cell (bằng tiếng English). 175 (5): 1185–1197.e22. doi:10.1016/j.cell.2018.10.027. ISSN 0092-8674. PMC 6327247. PMID 30415837.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  49. ^ Adovasio, J. M; Donahue, J. & Stuckenrath, R. (1990). “The Meadowcroft Rockshelter Rasdiocarbon Chronology 1975–1990”. American Antiquity. 55 (2): 348–354. doi:10.2307/281652. JSTOR 281652.
     Hirst, K. Kris (23 tháng 10 năm 2017). “What Does cal BP Mean?”. Thoughtco.com. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2018.
  50. ^ Holen, Steven R.; Deméré, Thomas A.; Fisher, Daniel C.; và đồng nghiệp (2017). “A 130,000-year-old archaeological site in southern California, USA”. Nature. 544 (7651): 479–483. Bibcode:2017Natur.544..479H. doi:10.1038/nature22065. PMID 28447646.
  51. ^ Rincon, Paul (26 tháng 4 năm 2017). “First Americans claim sparks controversy”. BBC News. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2017. Michael R. Waters commented that "To demonstrate such early occupation of the Americas requires the presence of unequivocal stone artifacts. There are no unequivocal stone tools associated with the bones... this site is likely just an interesting paleontological locality." Chris Stringer said that "extraordinary claims require extraordinary evidence – each aspect requires the strongest scrutiny," adding that "High and concentrated forces must have been required to smash the thickest mastodon bones, and the low energy depositional environment seemingly provides no obvious alternative to humans using the heavy cobbles found with the bones.

Thư mục