Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Họ Cỏ chổi”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 27: Dòng 27:
Đây là một họ phổ biến rộng khắp trên toàn thế giới, ngoại trừ [[Nam Mỹ]], các khu vực thuộc [[Úc|Australia]] và [[New Zealand]]. Họ này chủ yếu tìm thấy tại khu vực ôn đới của [[lục địa Á-Âu|đại lục Á-Âu]] và chỉ có rất ít loài thuộc về vùng nhiệt đới [[châu Phi]] và [[châu Mỹ]].
Đây là một họ phổ biến rộng khắp trên toàn thế giới, ngoại trừ [[Nam Mỹ]], các khu vực thuộc [[Úc|Australia]] và [[New Zealand]]. Họ này chủ yếu tìm thấy tại khu vực ôn đới của [[lục địa Á-Âu|đại lục Á-Âu]] và chỉ có rất ít loài thuộc về vùng nhiệt đới [[châu Phi]] và [[châu Mỹ]].


Các loài thực vật này là [[ký sinh]] toàn phần hoặc bán ký sinh, chúng là các loại thực vật thân thảo một năm hay lâu năm sống trên rễ của các cây chủ. Các loài ký sinh toàn phần không có [[diệp lục|chất diệp lục]] (chlorophyll) và không tự thực hiện công việc [[quang hợp]]. Các loài bán ký sinh (được chuyển từ họ Scrophulariaceae) có khả năng quang hợp, trong khi có thể sống ký sinh.
Các loài thực vật này là [[ký sinh]] toàn phần hoặc bán ký sinh, chúng là các loại thực vật thân thảo một năm hay lâu năm sống trên rễ của các cây chủ. Các loài ký sinh toàn phần không có [[diệp lục|chất diệp lục]] (chlorophyll) và không tự thực hiện công việc [[quang hợp]]. Các loài bán ký sinh (được chuyển từ họ Scrophulariaceae) có khả năng quang hợp có thể sống ký sinh tùy ý hoặc bắt buộc.


Chỉ có một số ít loài có hệ thống bộ rễ lớn. Ở phần lớn các loài có các rễ ngắn và phồng to hay một cơ quan phồng to, thuộc dạng đơn hay hợp. Các rễ này gắn vào cây chủ bằng các [[giác mút]] có móc để chuyển các chất dinh dưỡng từ cây chủ sang chúng.
Chỉ có một số ít loài có hệ thống bộ rễ lớn. Ở phần lớn các loài có các rễ ngắn và phồng to hay một cơ quan phồng to, thuộc dạng đơn hay hợp. Các rễ này gắn vào cây chủ bằng các [[giác mút]] có móc để chuyển các chất dinh dưỡng từ cây chủ sang chúng.<ref>{{cite journal | last1=Westwood | first1=James H. | last2=Yoder | first2=John I. | last3=Timko | first3=Michael P. | last4=dePamphilis | first4=Claude W. | title=The evolution of parasitism in plants | journal=Trends in Plant Science | year=2010 | volume=15 | issue=4 | pages=227–235 | doi=10.1016/j.tplants.2010.01.004 | pmid=20153240 | issn=1878-4372}}</ref>


Chúng có các lá suy giảm không có cuống, trông giống như các vảy mọng nước. Các vảy nhỏ mọc so le này thuộc dạng lá đơn, hình mác, thuôn dài hay bầu dục.
Chúng có thân sinh dưỡng ngắn, các lá tiêu giảm mọc so le không có cuống, tương tự như các vảy giống như răng mọng nước. Các vảy nhỏ mọc so le này thuộc dạng lá đơn, hình mác, thuôn dài hay bầu dục. Chúng có các lông đa bào rải rác với các lông tuyến.<ref>{{cite journal | last1=Young | first1=N. D. | last2=Steiner | first2=K. E. | last3=Claude | first3=W. | title=The Evolution of Parasitism in Schrophulariaceae/Orobanchaceae: Plastid gene sequences refute an evolutionary transition series | journal=Annals of the Missouri Botanical Garden | year=1999 | volume=86 | issue=4 | pages=876–893 | doi=10.2307/2666173 | jstor=2666173 | url=http://www.biodiversitylibrary.org/pdf3/007556000014018.pdf}}</ref>


Các hoa lưỡng tính là loại đối xứng hai bên và mọc thành cành hay cụm hoa hoặc mọc đơn trên đỉnh ngọn của thân cây thanh mảnh. [[Lá đài|Đài hoa]] hình ống được tạo thành từ 2-5 cánh hợp nhất. Năm cánh hoa hai môi hợp nhất tạo thành [[cánh hoa|tràng hoa]]. Môi trên là loại 2 thùy, môi dưới là 3 thùy. Có hai [[nhị hoa]] dài và hai nhị hoa ngắn trên các chỉ nhị thanh mảnh, lồng vào phía dưới của ống tràng hoa giữa hay ở gốc của tràng hoa, mọc so le với các thùy của ống. Nhị hoa thứ năm hoặc là vô sinh hoặc là không có. Các [[bao phấn]] nứt ra theo các khe hở dọc. [[Nhụy hoa]] là một tế bào. Bầu nhụy hoa lớn. Hoa được thụ phấn nhờ côn trùng.
Các hoa lưỡng tính là loại đối xứng hai bên và mọc thành cành hay cụm hoa hoặc mọc đơn trên đỉnh ngọn của thân cây thanh mảnh. [[Lá đài|Đài hoa]] hình ống được tạo thành từ 2-5 cánh hợp nhất. Năm cánh hoa hai môi hợp nhất tạo thành [[cánh hoa|tràng hoa]]. Môi trên là loại 2 thùy, môi dưới là 3 thùy. Có hai [[nhị hoa]] dài và hai nhị hoa ngắn trên các chỉ nhị thanh mảnh, lồng vào phía dưới của ống tràng hoa giữa hay ở gốc của tràng hoa, mọc so le với các thùy của ống. Nhị hoa thứ năm hoặc là vô sinh hoặc là không có. Các [[bao phấn]] nứt ra theo các khe hở dọc. [[Nhụy hoa]] là một tế bào. Bầu nhụy hoa lớn. Hoa được thụ phấn nhờ côn trùng.


Quả của chúng là loại quả nang dễ nứt, không có cùi thịt, một ngăn với nhiều hạt rất nhỏ có nội nhũ. Chúng được gió phát tán đi xa, làm gia tăng cơ hội tìm thấy cây chủ mới của chúng.
Quả của chúng là loại quả nang dễ nứt, không có cùi thịt, một ngăn với nhiều hạt rất nhỏ có nội nhũ. Quả của Orobanchaceae nhỏ, nhiều và có thể chứa tới 10.000–1.000.000 hạt mỗi cây.<ref>{{cite book | last1=Molau | first1=U. | title=Parasitic Plants: Reproductive ecology and biology | date=1995 | publisher=Chapman and Hall | location=London | pages=141–176}}</ref> Chúng được gió phát tán đi xa, làm gia tăng cơ hội tìm thấy cây chủ mới của chúng.


Các loài cây này có màu ánh vàng, ánh nâu, ánh tía, hoặc trắng nhưng không có màu lục, ngoại trừ một vài loài bán ký sinh.
Các loài cây này có màu ánh vàng, ánh nâu, ánh tía, hoặc trắng nhưng không có màu lục, ngoại trừ một vài loài bán ký sinh.

''[[Lindenbergia]]'', một thời được xếp trong họ [[Scrophulariaceae]], là một trong ít chi tự dưỡng của họ Orobanchaceae. Người ta cho rằng nó là nhóm có quan hệ chị-em với các chi bán ký sinh trong phạm vi họ này.<ref>{{cite book | last1=Judd | first1=Walter S. | title=Plant systematics: a phylogenetic approach | year=2008 | publisher=Sinauer Associates | location=Sunderland, Mass. | isbn=978-0-87893-407-2 | edition=lần 3 | display-authors=etal}}</ref>


Họ này không có giá trị kinh tế, thậm chí một vài loài còn là nguy hiểm cho các loại cây trồng.
Họ này không có giá trị kinh tế, thậm chí một vài loài còn là nguy hiểm cho các loại cây trồng.

[[Tập tin:Cistanche phelypaea.jpg|nhỏ|phải|''Cistanche phelypaea'']]
=== Hệ gen học ===
[[Hình:Broomrape (Cistanche tubulosa) Negev.jpg|nhỏ|phải|''Cistanche tubulosa'']]
Tính chất ký sinh và các phương thức khác nhau của nó được cho là có ảnh hưởng tới tiến hóa [[bộ gen]], với [[tốc độ đột biến|tốc độ thay thế DNA]] tăng lên ở các sinh vật ký sinh so với các sinh vật không ký sinh.<ref name="Haraguchi1996">{{Cite journal | last1=Haraguchi | first1=Yoshihiro | last2=Sasaki | first2=Akira | year=1996 | title=Host–Parasite Arms Race in Mutation Modifications: Indefinite Escalation Despite a Heavy Load? | journal=Journal of Theoretical Biology | language=en | volume=183 | issue=2 | pages=121–137 | doi=10.1006/jtbi.1996.9999 | pmid=8977873 | bibcode=1996JThBi.183..121H | issn=0022-5193}}</ref> Chẳng hạn, các đơn vị phân loại toàn ký sinh ở Orobanchaceae thể hiện tốc độ [[tiến hóa phân tử]] nhanh hơn so với các loài bán ký sinh cùng họ ở ba gen [[lạp thể]].<ref name="Young2005">{{Cite journal | last1=Young | first1=Nelson D. | last2=dePamphilis | first2=Claude W. | year=2005 | title=Rate variation in parasitic plants: correlated and uncorrelated patterns among plastid genes of different function | journal=BMC Evolutionary Biology | volume=5 | issue=1 | pages=16 | doi=10.1186/1471-2148-5-16 | issn=1471-2148 | pmc=554776 | pmid=15713237}}</ref>
[[Tập tin:Bellardia trixago a.jpg|nhỏ|phải|''Bellardia trixago'']]

Trong một nghiên cứu so sánh tốc độ tiến hóa phân tử của các đơn vị phân loại ký sinh so với các đơn vị phân loại không ký sinh cho 12 cặp họ thực vật hạt kín — bao gồm [[Apodanthaceae]], [[Cytinaceae]], [[Rafflesiaceae]], [[Cynomoriaceae]], [[Krameriaceae]], [[Mitrastemonaceae]], [[Boraginaceae]], Orobanchaceae, [[Convolvulaceae]], [[Lauraceae]], [[Hydnoraceae]] và [[Santalaceae]]/[[Olacaceae]] —, các đơn vị phân loại ký sinh tiến hóa với tốc độ trung bình nhanh hơn các họ hàng gần của chúng trong các trình tự bộ gen của ti thể, lạp thể và hạt nhân.<ref name="Bromham2013">{{cite journal | last1=Bromham | first1=Lindell | last2=Cowman | first2=Peter F. | last3=Lanfear | first3=Robert | title=Parasitic plants have increased rates of molecular evolution across all three genomes | journal=BMC Evolutionary Biology | year=2013 | volume=13 | page=126 | doi=10.1186/1471-2148-13-126 | pmid=23782527 | issn=1471-2148 | pmc=3694452}}</ref> Trong khi Orobanchaceae phù hợp với xu hướng này đối với DNA lạp thể thì chúng dường như tiến hóa chậm hơn các đồng loại không ký sinh khi so về DNA hạt nhân và ti thể.<ref name="Bromham2013"/>


== Các chi ==
== Các chi ==
Dòng 143: Dòng 147:
* ''[[Xylanche]]'': Đinh tọa thảo
* ''[[Xylanche]]'': Đinh tọa thảo
* ''[[Xylocalyx]]''
* ''[[Xylocalyx]]''

==Hình ảnh==
<gallery>
Tập tin:Cistanche phelypaea.jpg|''Cistanche phelypaea''.
Tập tin:Broomrape (Cistanche tubulosa) Negev.jpg|''Cistanche tubulosa''.
Tập tin:Bellardia trixago a.jpg|''Bellardia trixago''.
</gallery>


==Ghi chú==
==Ghi chú==

Phiên bản lúc 16:09, ngày 14 tháng 6 năm 2023

Họ Cỏ chổi
Orobanche purpurea
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Plantae
(không phân hạng)Angiospermae
(không phân hạng)Eudicots
(không phân hạng)Asterids
Bộ (ordo)Lamiales
Họ (familia)Orobanchaceae
Vent., 1799[1]
Chi điển hình
Orobanche
L., 1753[2]
Các tông[3]

Orobanchaceae, danh pháp khoa học của một họ thực vật có hoa, trong tiếng Việt gọi là họ Cỏ chổi hoặc họ Lệ đương, thuộc bộ Hoa môi (Lamiales), với khoảng 104 chi và trên 2.300 loài.[3] Nhiều chi trong họ này trước đây đã được đưa vào trong họ Huyền sâm (Scrophulariaceae) nghĩa rộng. Tất cả các chi trong họ này cùng nhau tạo ra một nhóm đơn ngành và tạo thành một họ riêng biệt.

Đây là một họ phổ biến rộng khắp trên toàn thế giới, ngoại trừ Nam Mỹ, các khu vực thuộc AustraliaNew Zealand. Họ này chủ yếu tìm thấy tại khu vực ôn đới của đại lục Á-Âu và chỉ có rất ít loài thuộc về vùng nhiệt đới châu Phichâu Mỹ.

Các loài thực vật này là ký sinh toàn phần hoặc bán ký sinh, chúng là các loại thực vật thân thảo một năm hay lâu năm sống trên rễ của các cây chủ. Các loài ký sinh toàn phần không có chất diệp lục (chlorophyll) và không tự thực hiện công việc quang hợp. Các loài bán ký sinh (được chuyển từ họ Scrophulariaceae) có khả năng quang hợp và có thể sống ký sinh tùy ý hoặc bắt buộc.

Chỉ có một số ít loài có hệ thống bộ rễ lớn. Ở phần lớn các loài có các rễ ngắn và phồng to hay một cơ quan phồng to, thuộc dạng đơn hay hợp. Các rễ này gắn vào cây chủ bằng các giác mút có móc để chuyển các chất dinh dưỡng từ cây chủ sang chúng.[4]

Chúng có thân sinh dưỡng ngắn, các lá tiêu giảm mọc so le không có cuống, tương tự như các vảy giống như răng mọng nước. Các vảy nhỏ mọc so le này thuộc dạng lá đơn, hình mác, thuôn dài hay bầu dục. Chúng có các lông đa bào rải rác với các lông tuyến.[5]

Các hoa lưỡng tính là loại đối xứng hai bên và mọc thành cành hay cụm hoa hoặc mọc đơn trên đỉnh ngọn của thân cây thanh mảnh. Đài hoa hình ống được tạo thành từ 2-5 cánh hợp nhất. Năm cánh hoa hai môi hợp nhất tạo thành tràng hoa. Môi trên là loại 2 thùy, môi dưới là 3 thùy. Có hai nhị hoa dài và hai nhị hoa ngắn trên các chỉ nhị thanh mảnh, lồng vào phía dưới của ống tràng hoa giữa hay ở gốc của tràng hoa, mọc so le với các thùy của ống. Nhị hoa thứ năm hoặc là vô sinh hoặc là không có. Các bao phấn nứt ra theo các khe hở dọc. Nhụy hoa là một tế bào. Bầu nhụy hoa lớn. Hoa được thụ phấn nhờ côn trùng.

Quả của chúng là loại quả nang dễ nứt, không có cùi thịt, một ngăn với nhiều hạt rất nhỏ có nội nhũ. Quả của Orobanchaceae nhỏ, nhiều và có thể chứa tới 10.000–1.000.000 hạt mỗi cây.[6] Chúng được gió phát tán đi xa, làm gia tăng cơ hội tìm thấy cây chủ mới của chúng.

Các loài cây này có màu ánh vàng, ánh nâu, ánh tía, hoặc trắng nhưng không có màu lục, ngoại trừ một vài loài bán ký sinh.

Lindenbergia, một thời được xếp trong họ Scrophulariaceae, là một trong ít chi tự dưỡng của họ Orobanchaceae. Người ta cho rằng nó là nhóm có quan hệ chị-em với các chi bán ký sinh trong phạm vi họ này.[7]

Họ này không có giá trị kinh tế, thậm chí một vài loài còn là nguy hiểm cho các loại cây trồng.

Hệ gen học

Tính chất ký sinh và các phương thức khác nhau của nó được cho là có ảnh hưởng tới tiến hóa bộ gen, với tốc độ thay thế DNA tăng lên ở các sinh vật ký sinh so với các sinh vật không ký sinh.[8] Chẳng hạn, các đơn vị phân loại toàn ký sinh ở Orobanchaceae thể hiện tốc độ tiến hóa phân tử nhanh hơn so với các loài bán ký sinh cùng họ ở ba gen lạp thể.[9]

Trong một nghiên cứu so sánh tốc độ tiến hóa phân tử của các đơn vị phân loại ký sinh so với các đơn vị phân loại không ký sinh cho 12 cặp họ thực vật hạt kín — bao gồm Apodanthaceae, Cytinaceae, Rafflesiaceae, Cynomoriaceae, Krameriaceae, Mitrastemonaceae, Boraginaceae, Orobanchaceae, Convolvulaceae, Lauraceae, HydnoraceaeSantalaceae/Olacaceae —, các đơn vị phân loại ký sinh tiến hóa với tốc độ trung bình nhanh hơn các họ hàng gần của chúng trong các trình tự bộ gen của ti thể, lạp thể và hạt nhân.[10] Trong khi Orobanchaceae phù hợp với xu hướng này đối với DNA lạp thể thì chúng dường như tiến hóa chậm hơn các đồng loại không ký sinh khi so về DNA hạt nhân và ti thể.[10]

Các chi

Chi Lathraea theo truyền thống được đặt trong họ Orobanchaceae, nhưng một số chứng cứ gần đây cho rằng nó nên được chuyển sang họ Huyền sâm (Scrophulariaceae).

Hình ảnh

Ghi chú

  1. ^ Étienne Pierre Ventenat, 1799. Ordre II. Les Orobanchoides, Orobanchoideae. Tableau du Règne Végétal, selon de Méthode de Jussieu 2: 292.
  2. ^ Carl Linnaeus, 1753. Orobanche. Species Plantarum 2: 632.
  3. ^ a b Stevens, Peter. “Angiosperm Phylogeny Website, version 13. Lamiales: Orobanchaceae. www.mobot.org. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2016.
  4. ^ Westwood, James H.; Yoder, John I.; Timko, Michael P.; dePamphilis, Claude W. (2010). “The evolution of parasitism in plants”. Trends in Plant Science. 15 (4): 227–235. doi:10.1016/j.tplants.2010.01.004. ISSN 1878-4372. PMID 20153240.
  5. ^ Young, N. D.; Steiner, K. E.; Claude, W. (1999). “The Evolution of Parasitism in Schrophulariaceae/Orobanchaceae: Plastid gene sequences refute an evolutionary transition series” (PDF). Annals of the Missouri Botanical Garden. 86 (4): 876–893. doi:10.2307/2666173. JSTOR 2666173.
  6. ^ Molau, U. (1995). Parasitic Plants: Reproductive ecology and biology. London: Chapman and Hall. tr. 141–176.
  7. ^ Judd, Walter S.; và đồng nghiệp (2008). Plant systematics: a phylogenetic approach . Sunderland, Mass.: Sinauer Associates. ISBN 978-0-87893-407-2.
  8. ^ Haraguchi, Yoshihiro; Sasaki, Akira (1996). “Host–Parasite Arms Race in Mutation Modifications: Indefinite Escalation Despite a Heavy Load?”. Journal of Theoretical Biology (bằng tiếng Anh). 183 (2): 121–137. Bibcode:1996JThBi.183..121H. doi:10.1006/jtbi.1996.9999. ISSN 0022-5193. PMID 8977873.
  9. ^ Young, Nelson D.; dePamphilis, Claude W. (2005). “Rate variation in parasitic plants: correlated and uncorrelated patterns among plastid genes of different function”. BMC Evolutionary Biology. 5 (1): 16. doi:10.1186/1471-2148-5-16. ISSN 1471-2148. PMC 554776. PMID 15713237.
  10. ^ a b Bromham, Lindell; Cowman, Peter F.; Lanfear, Robert (2013). “Parasitic plants have increased rates of molecular evolution across all three genomes”. BMC Evolutionary Biology. 13: 126. doi:10.1186/1471-2148-13-126. ISSN 1471-2148. PMC 3694452. PMID 23782527.
  11. ^ Zhi Xia, Yin-Zheng Wang, James F. Smith, 2009. Familial placement and relations of Rehmannia and Triaenophora (Scrophulariaceae s.l.) inferred from five gene regions Lưu trữ 2010-05-19 tại Wayback Machine, American Journal of Botany 96: 519-530.