Justyna Majkowska

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Justyna Majkowska (sinh ngày 17 tháng 7 năm 1977 tại Zduńska Wola) là ca sĩ Ba Lan, cựu giọng ca chính của ban nhạc Ich Troje. Cô tốt nghiệp Đại học Opole.

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Justyna Majkowska hợp tác với ban nhạc Erato do Andrzej Wawrzyniak khởi xướng và tham gia nhiều lễ hội âm nhạc toàn quốc. Ngày 16/4 cô tham gia buổi truyền hình trực tiếp tại trường quay S1 với dẫn chương trình Henryk Debich trên Đài phát thanh Łódź.

Từ tháng 3 năm 2001 đến tháng 5 năm 2003, ca sĩ hợp tác với ban nhạc Ich Troje [1]. Năm 2001, họ phát hành Ad. 4, và một năm sau, album thứ năm được phát hành, mang tên Po piąte... a niech gadają.

Vào ngày 2 tháng 4 năm 2004, cô phát hành album solo đầu tiên của mình mang tên Nie czekam na cud (Tạm dịch: Tôi không chờ đợi một phép màu) ☃☃ với ban nhạc Erato. Hãng thu âm là Fonografika.

Hãng đĩa Anaconda Productions phát hành album solo thứ hai của Justyna Majkowska vào ngày 14 tháng 11 năm 2011 mang tên Zakochana od jutra (Tạm dịch: Yêu từ ngày mai).[2] Album gồm 10 ca khúc mới và một bản phối hoàn toàn mới của ca khúc sáng tác từ thời Justyna Majkowska còn trong nhóm nhạc Ich Troje mang tên "Zawsze pójdę w Twoją stronę (Tạm dịch: Em sẽ luôn về bên anh). Album đề cử cho giải thưởng European Independent Album of the Year.

Năm 2016, cô thu âm bài hát "Krzyk" [3] cùng với Michał Wiśniewski nằm trong album Nierdzewny. Vào ngày 24 tháng 6 cùng năm, cô tham gia một buổi hòa nhạc nhân dịp kỷ niệm 20 năm thành lập ban nhạc Ich Troje biểu diễn tại Katowice [4].

Vào ngày 8 tháng 9 năm 2018, cô tham gia lễ kỷ niệm 30 năm sự nghiệp âm nhạc ca sĩ Michał Wiśniewski [5].

Giải thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Ban nhạc Erato
  • 1997: Giải Grand Prix và giải thưởng dành cho nhà báo tại Liên hoan Baszta97 ở Ostrzeszów
  • 1998: Giải Grand Prix của Liên hoan thơ ca ở Limanowa
  • 1998: Vị trí thứ 2 tại Liên hoan "Dopóki jestem uśmiechem, słowem, gestem" ở Sieradz
Ban nhạc Ich Troje
Bài hát solo
  • 2012: Album của Justyna Majkowska, có tựa đề Zakochana od jutra (Tạm dịch: Yêu từ ngày mai), được đề cử cho European Independent Album of the Year Award [6]

Đời tư[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 7 tháng 5 năm 2005, cô kết hôn với Jarosław Miśkiewicz, và vào ngày 25 tháng 9 năm 2005, cô sinh một cậu con trai là Ignacy. Tháng 6 năm 2016, con gái Aniela chào đời [7]. Năm 2018, cô sinh con thứ ba là con trai.

Tác phẩm[sửa | sửa mã nguồn]

Tiêu đề Dữ liệu album
Nie czekam na cud (Tôi không chờ đợi một phép màu)
  • Ngày: 2 tháng 4 năm 2004
  • Hãng thu âm: Fonografika
Zakochana od jutra (Yêu từ ngày mai)
  • Ngày: 14 tháng 11 năm 2011 [8]
  • Hãng thu âm: Anaconda Productions

Đóng phim[sửa | sửa mã nguồn]

  • 2002: Gwiazdor [9]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Gdy wokalistka odchodzi z zespołu... - 5 najgłośniejszych przypadków”. tuba.pl. 3 tháng 5 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2020.
  2. ^ “Zakochana od jutra”. empik.com. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2011.
  3. ^ “Michał Wiśniewski i Justyna Majkowska razem: Zobacz teledysk "Krzyk". 14 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2020.
  4. ^ “Ich Troje: Koncert na 20-lecie zespołu w katowickim Spodku (relacja, zdjęcia)”. 27 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2020.
  5. ^ Jubileusz 30 lat na scenie Michała Wiśniewskiego
  6. ^ “Justyna Majkowska nominowana do nagrody European Independent Album of the Year”. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2020.
  7. ^ “Z JUSTYNĄ MAJKOWSKĄ O JUBILEUSZU ZOO CAFE I NIE TYLKO - siewie.tv”. 30 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2020.
  8. ^ “Płyta Zakochana od jutra - Justyna Majkowska”. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2020.
  9. ^ “GWIAZDOR”. 27 tháng 9 năm 2002. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2020.