Mattress (rocket)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Land Mattress
Giàn phóng rocket Land Mattress (bên phải) và giàn phóng Nebelwerfer (bên trái) tại Bảo tàng chiến tranh Canada. Tấm bảng trước giàn rocket ghi Proj., Rocket 3in, No. 8 MK-1. A.C. Cars. 1945. Reg. No. 108
LoạiPháo phản lực bắn loạt
Nơi chế tạoVương quốc Anh
Lược sử hoạt động
TrậnChiến tranh thế giới 2
Thông số
Khối lượng1.118 kg (2.465 lb)

Đạn pháoRocket length: 1,77 m (5 ft 10 in)
Rocket weight: 30,5 kg (67 lb)
Warhead: 3,18 kg (7 lb)
Cỡ đạn76,2 mm (3 in)
Sơ tốc đầu nòng353 m/s (1.160 ft/s)
Tầm bắn xa nhất7.230 m (7.910 yd)

Mattress là thuật ngữ được áp dụng cho nhiều loại pháo phản lực bắn loạt của Anh sử dụng trong Chiến tranh thế giới 2. Loại pháo phản lực này tương đương với Nebelwerfer của Đức và Katyusha của Liên Xô, nhưng được triển khai chậm hơn so với Nebelwerfer và Katyusha. Tuy nhiên, nó đã có đóng góp quan trọng trong cuộc vượt sông Rhine và sông Scheldt.

Phiên bản trên tàu hải quân[sửa | sửa mã nguồn]

Hệ thống pháo phản lực phóng loạt đầu tiên được Anh thiét kế để trang bị trên tàu chiến và tàu đổ bộ để yểm trợ cho quân đổ bộ. Rocket có cỡ nòng 5 inch (12,70 cm) sử dụng thuốc phóng không khói cordite cùng với hệ thống phóng, được gọi là "mattress projector", có khả năng bắn một loạt từ 16 đến 30 tên lửa tới cự ly 3.000 thước Anh (2,7 km) trong 45 giây. Vũ khí này có tiếng lóng là "Stickleback".

Để xuyên thủng lớp phòng thủ bờ biển, các tàu chiến, tàu đổ bộ, nhất là Landing Craft Tank (Rocket) - LCT(R) được trang bị mỗi tàu hơn một nghìn quả rocket để tạo thành một bão lửa chụp lên mục tiêu. Phiên bản trên tàu hải quân cũng được sử dụng trong cuộc đổ bộ của quân Đồng minh vào Ý và Normandy.

Phiên bản trên bộ[sửa | sửa mã nguồn]

Phiên bản pháo phản lực phóng loạt trên bộ được đặt tên là Land Mattress tương tự như Sea Mattress của Hải quân Hoàng gia Anh. Hệ thống pháo phản lực Land Mattress được phát triển bởi Trung tá Michael Wardell của Lục quân Anh vào năm 1944.[1] Được thiết kế dựa trên rocket phòng không Z, nó được thử nghiệm vào mùa hè năm 1944 và được Lục quân Anh và Canada sử dụng. Rocket Land Mattress được thiết kế dựa trên ống phóng có đường kính 3 inch (76 mm) của RP-3 hay rocket "60lb" sử dụng trên máy bay cường kích có cùng đầu đạn 5 inch (12,70 cm) như phiên bản rocket Matrees trên tàu hải quân. Land Matress có 16 hoặc 30 ống phóng rocket được gắn lên giàn phóng dạng kéo theo. Land Matress có tầm bắn 8.000 yard (7,3 km). Rocket được phóng với tốc độ 4 rocket/s. Trong trận đánh vượt sông Scheldt, hàng nghìn rocket đã được phóng đi trong vòng sáu giờ đồng hồ.

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Land Mattress” (PDF). Canadian War Museum Fact Sheet No. 4. Friends of the Canadian War Museum. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2020.

Link ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

  • Tư liệu liên quan tới Land Mattress tại Wikimedia Commons