Tìm kiếm Tài năng Úc

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Australia's Got Talent
Thể loạiTruyền hình thực tế
Sáng lập
Dẫn chương trình
  • Grant Denyer
  • Julia Morris
  • Dave Hughes
  • Ricki-Lee Coulter
Giám khảo
Quốc gia Úc
Ngôn ngữTiếng Anh
Số mùa9
Số tập122
Sản xuất
Nhà sản xuất
  • FremantleMedia Australia
  • SYCOtv
Địa điểm
Thời lượng90 phút
Trình chiếu
Kênh trình chiếu
Định dạng hình ảnh
Phát sóng18 tháng 2 năm 2007 (2007-02-18) – hiện nay
Thông tin khác
Chương trình liên quan
Liên kết ngoài
Trang mạng chính thức

Tìm kiếm Tài năng Úc - Australia's Got Talent là một truyền hình thực tế chương trình tài năng của Úc[5]. Chương trình dựa trên định dạng chuỗi Got Talent bắt nguồn từ Vương quốc Anh của Simon Cowell.[5][6][7][8]

Giám khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Mùa Dẫn chương trình[1] Giám khảo Kênh
1 2 3 4
1 Grant Denyer[9] Red Symons Dannii Minogue Tom Burlinson No fourth judge Seven Network
2
3
4 Brian McFadden Kyle Sandilands[10]
5
6
7 Julia Morris Dawn French Timomatic[11][12][13] Geri Halliwell Kyle Sandilands Nine Network
8 King Social Matt McLaren Sisters Doll Dave Hughes Eddie Perfect
9 Ricki-Lee Coulter Shane Jacobson Lucy Durack Nicole Scherzinger Manu Feildel Seven Network

Phát sóng[sửa | sửa mã nguồn]

Mùa Kênh Tập đầu Tập cuối Số tập
1 Seven Network 18 tháng 2 năm 2007 28 tháng 4 năm 2007 11
2 29 tháng 4, 2008 29 tháng 5, 2008 10
3 4 tháng 2, 2009 22 tháng 4, 2009 12
4 13 tháng 4, 2010 15 tháng 6 năm 2010 10
5 3 tháng 5, 2011 2 tháng 8, 2011 18
6 16 tháng 4, 2012 25 tháng 7 năm 2012 21
7 Nine Network 11 tháng 8, 2013 10 tháng 11, 2013 14
8 1 tháng 2 năm 2016 16 tháng 4 năm 2016 13
9 Seven Network 28 tháng 7, 2019 22 tháng 9, 2019 13[14][15]

Mùa giải[sửa | sửa mã nguồn]

Mùa 1 (2007)[sửa | sửa mã nguồn]

Mùa đầu tiên của Australia's Got Talent được công chiếu trên kênh Seven Network vào ngày 18 tháng 2 năm 2007. Các giám khảo là Dannii Minogue, Tom BurlinsonRed Symons. Ca sĩ Bonnie Anderson đã trở thành quán quân mùa đầu tiên vào ngày 28 tháng 4 năm 2007, tiếp theo là Herb Patten về đích ở vị trí á quân.

Mùa 2 (2008)[sửa | sửa mã nguồn]

Mùa thứ hai của Australia's Got Talent bắt đầu phát sóng vào ngày 29 tháng 4 năm 2008 và kết thúc phát sóng vào ngày 1 tháng 7. Minogue, Burlinson và Symons đều trở lại với tư cách là giám khảo. Người chiến thắng là tay chơi guitar Joe Robinson, với Jourdain là người về nhì.

Mùa 3 (2009)[sửa | sửa mã nguồn]

Các cuộc casting cho mùa thứ ba bắt đầu vào cuối năm 2008 và những thí sinh thành công trong vòng casting này đã được thông báo vào tháng 12 năm 2008. Quá trình quay bắt đầu vào ngày 15 tháng 1 năm 2009.

Người chiến thắng là Mark Vincent vào ngày 22 tháng 4 năm 2009. Trong khi Jal Joshua trở thành á quân.

Mùa 4 (2010)[sửa | sửa mã nguồn]

Mùa thứ tư của Australia's Got Talent trở lại vào ngày 13 tháng 4 năm 2010.[16] Grant Denyer tiếp tục là người dẫn chương trình, Kyle SandilandsBrian McFadden tham gia cùng Dannii Minogue trong ban giám khảo thay thế cho Red SymonsTom Burlinson.[16][17]

Chương trình đã được cải tiến để trông giống Britain's Got Talent hơn, về mặt hình dạng của sân khấu là chữ "X" đã được sử dụng. Phần mở đầu cũng được thay đổi để trông giống với phần mở đầu của Britain's Got Talent. Trước đây, phần mở đầu của Australia's Got Talent chỉ đơn giản là một màn trình diễn tiêu đề. Chương trình trực tiếp bắt đầu vào ngày 11 tháng 5 năm 2010 và kết thúc vào ngày 15 tháng 6 năm 2010, nơi mà đoàn múa Justice Crew đã là những người chiến thắng.[18] với giải thưởng lên đến $250,000[18]. Cameron Henderson được vị trí á quân.[18]

Mùa 5 (2011)[sửa | sửa mã nguồn]

Mùa thứ năm của Australia's Got Talent trở lại vào ngày 3 tháng 5 năm 2011.[19] Tất cả các giám khảo (Dannii Minogue, Kyle Sandilands và Brian McFadden) đã trở lại cho mùa giải, bao gồm cả người dẫn chương trình Grant Denyer.[19] Buổi casting diễn ra khắp nước Úc.[20] Các tiết mục thành công từ buổi casting sau đó được tham gia Australia's Got Talent vào ngày 19 tháng 2 năm 2011, sau đó chuyển vị trị cuộc thi lại tại Melbourne từ ngày 25 tháng 2 năm 2011.[21] Và họ tiếp tục chuyển cuộc thi lại Sydney vào ngày 12–13 tháng 3 năm 2011, và kết thúc tại Perth vào ngày 20 tháng 3 năm 2011.[21]

Quán quân là ca sĩ 14 tuổi Jack Vidgen.[22]

Mùa 6 (2012)[sửa | sửa mã nguồn]

Các cuộc casting bắt đầu vào tháng 10 năm 2011 và kết thúc vào tháng 12 năm 2011.[23] Phần thứ sáu được phát sóng trên Seven Network từ ngày 16 tháng 4 năm 2012 đến ngày 25 tháng 7 năm 2012. Một lần nữa, Dannii Minogue, Kyle Sandilands và Brian McFadden trở lại làm giám khảo và Grant Denyer trở lại với tư cách người dẫn chương trình.[24][25]

Người chiến thắng là ca sĩ Andrew de Silva với ban nhạc rock đồng quê, The Wolfe Brothers trở thành á quân.

Mùa 7 (2013)[sửa | sửa mã nguồn]

Các cuộc casting bắt đầu vào tháng 3 năm 2013 và kết thúc vào tháng 6 năm 2013.[26] Phần thứ bảy được phát sóng trên [Nine Network] vào năm 2013.[27] Kyle Sandilands trở lại hội đồng giám khảo, trong khi Dannii Minogue và Brian McFadden được thay thế bởi ba giám khảo mới Geri Halliwell, Dawn FrenchTimomatic là giám khảo thứ tư bổ sung.[28] Người dẫn chương trình là Julia Morris thay thế Grant Denyer.[28][29] Người chiến thắng là ban nhạc "Funk/Soul/Jazz/Reggae", Uncle Jed,[30] với ban nhạc Greg Gould và The Chase trở thành á quân 1 và 2.

Mùa 8 (2016)[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 8 tháng 7 năm 2015, Nine thông báo rằng chương trình sẽ trở lại vào năm 2016 với mùa thứ tám. Vào thứ Hai ngày 4 tháng 1, đã có thông báo rằng Phần tám sẽ diễn ra vào thứ 2 ngày 1 tháng 2 năm 2016.[31][32] Đây là mùa thứ hai được phát sóng trên Nine Network.[33][34] Các buổi casting được mở vào tháng 9 và tháng 10 năm 2015.[35] Vào ngày 28 tháng 10 năm 2015, có thông báo rằng Sandilands, Halliwell, FrenchTimomatic đã được thay thế bằng một ban giám khảo mới, họ là Ian "Dicko" Dickson, Sophie Monk, Kelly OsbourneEddie Perfect. Dẫn chương trình là Golden Buzzer.[36][37] Chương trình được công chiếu vào ngày 1 tháng 2 năm 2016 và kết thúc vào ngày 14 tháng 3 năm 2016.[38] Người chiến thắng của mùa giải này là Fletcher Pilon[39].

Mùa 9 (2019)[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 12 năm 2018, Seven Network đã thông báo rằng loạt chương trình sẽ trở lại vào năm 2019 với hệ thống mạng của họ trong mùa thứ chín, sau ba năm gián đoạn.[40][41] Vào tháng 5 năm 2019, Seven Network đã công bố Nicole Scherzinger, Shane Jacobson, Manu FeildelLucy Durack là giám khảo của Australia's Got Talent mùa 9,[42]Ricki-Lee Coulter với tư cách là người dẫn chương trình.[43] Mùa giải diễn ra từ ngày 28 tháng 7 đến ngày 22 tháng 9 năm 2019.[44]

Người chiến thắng trong mùa giải là vũ công múa cột Kristy Sellars.[45][46]

Toàn bộ chung kết phần 9 được quay lại từ trước đó, sau đó mới phát sóng.

Mùa 10 (2022)[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 6 năm 2021, Seven Network đã công bố một ban giám khảo hoàn toàn mới (ngoại trừ Shane Jacobson), giờ sẽ bao gồm Kate Ritchie, Alesha Dixon và diễn viên người Mỹ Neil Patrick Harris, dự kiến ​​sẽ tái khởi động chương trình vào năm 2022.[47] Dù vậy do các hạn chế COVID-19 trong năm 2021-2021 ở Sydney, mùa giải đã bị hoãn lại đến năm 2022.[48][49][50]

Seven Network sau đó xác nhận Australia's Got Talent mùa 9 sẽ được sản xuất và phát sóng trong tương lai, có thể là năm 2022.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b Cameron (17 tháng 2 năm 2010). “Brian McFadden joins the judging panel on 'Australia's Got Talent'. TVcentral.com.au. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2011.
  2. ^ “Kyle Sandilands returns to TV as Australia's Got Talent judge”. The Australian. Sydney: News Limited. 4 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2011.
  3. ^ “Vile Kyle Sandilands could judge again on Australia's Got Talent”. News.com.au. 29 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2011.
  4. ^ “Australia's Got Talent | Television New Zealand | Entertainment | TVNZ 1, TVNZ 2”.
  5. ^ a b Knox, David (13 tháng 7 năm 2019). “Returning: Australia's Got Talent”. TV Tonight. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2019.
  6. ^ Knox, David (13 tháng 6 năm 2021). “Neil Patrick Harris to judge Australia's Got Talent”. TV Tonight. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2021.
  7. ^ “Week 6”. TV Tonight.
  8. ^ “Grant Denyer to host Australia's Got Talent” (PDF) (Thông cáo báo chí). Seven Network. 18 tháng 12 năm 2006. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2007.[liên kết hỏng]
  9. ^ “Australia's Got Talent returning to Seven”. TV Tonight. 3 tháng 12 năm 2018.
  10. ^ “Australia's Got Talent – 2015”. Fmashows.com. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2015.
  11. ^ Joe (20 tháng 4 năm 2011). “Australia's Got Talent 2011 premieres Tuesday May 3”. TVcentral.com.au. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2011.[liên kết hỏng]
  12. ^ Kate McMahon and Colin Vickery (2 tháng 8 năm 2011). “Australia's Got Talent winner Jack Vigden has the world at his feet”. Herald Sun. Australia. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2011.
  13. ^ Yahoo! 7 (30 tháng 9 năm 2011). “Australia's Got Talent”. Yahoo!. Australia: Yahoo!. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2011.
  14. ^ “Seven says axing Australia's Got Talent was the right decision”. 13 tháng 8 năm 2013.
  15. ^ “Airdate: Australia's Got Talent”. 14 tháng 4 năm 2008.
  16. ^ a b Knox, David (1 tháng 4 năm 2010). “Returning: Australia's Got Talent”. TV Tonight. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2011.
  17. ^ Cameron (19 tháng 1 năm 2010). 'Australia's Got Talent' audition dates”. TVcentral.com.au. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2011.
  18. ^ a b c Washbrook, Cyril (15 tháng 6 năm 2010). “Justice Crew wins Australia's Got Talent”. The Spy Report. Media Spy. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2011.
  19. ^ a b Joe (20 tháng 4 năm 2011). “Australia's Got Talent 2011 premieres Tuesday May 3”. TVcentral.com.au. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2011.[liên kết hỏng]
  20. ^ Knox, David (24 tháng 9 năm 2010). “Auditions: Australia's Got Talent”. TV Tonight. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2010.
  21. ^ a b Lowie (27 tháng 1 năm 2011). “Dannii, Kyle and Brian return to judge Australia's Talent”. The Spy Report. Media Spy. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2011.
  22. ^ “Jack Vidgen wins Australia's Got Talent”. The Spy Report. Media Spy. 3 tháng 8 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2011.
  23. ^ “Australia's Got Auditions!”. Yahoo! 7. Yahoo!. 30 tháng 9 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2011.
  24. ^ “Australia's Got Talent - Official Website”. Yahoo! 7. Yahoo!. 30 tháng 9 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2011.
  25. ^ “Todd, isn't that Kyle's spot?”.
  26. ^ “Non-Existent Domain”. tháng 5 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2021.
  27. ^ “Nine's got Australia's Got Talent”.
  28. ^ a b “Reference at www.perthnow.com.au”.
  29. ^ Gardiner, Stephanie (18 tháng 4 năm 2013). “Mel B blocked from Australia's Got Talent role”.
  30. ^ “Archived copy”. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2013.Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết)
  31. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Season8FMA
  32. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Season8IfMag
  33. ^ “Nine reviving Australia's Got Talent. Renewed: The Voice”. 8 tháng 7 năm 2015.
  34. ^ “Nine to revive Australia's Got Talent in 2016 - Mumbrella”. 8 tháng 7 năm 2015.
  35. ^ Galvin, Nick (8 tháng 7 năm 2015). “Nine bringing back Australia's Got Talent, The Voice”.
  36. ^ “Back from the Dead! Australia's Got Talent returns to Nine in 2016”. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2021.
  37. ^ “Subscribe to the Herald Sun”.[liên kết hỏng]
  38. ^ Knox, David (5 tháng 1 năm 2016). “Airdate: Australia's Got Talent”. TV Tonight. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2016.
  39. ^ Knox, David (28 tháng 12 năm 2016). “Axed in 2016”. news.com.au. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2016.
  40. ^ Knox, David (3 tháng 12 năm 2018). “Australia's Got Talent returning to Seven”. tvtonight.com.au. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2019.
  41. ^ “Australia's Got Talent is coming to 7 in 2019”. 7plus.com.au. 3 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2019.
  42. ^ Knox, David (1 tháng 5 năm 2019). “Australia's Got Talent judging panel 2019”. tvtonight.com.au. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2019.
  43. ^ Knox, David (5 tháng 5 năm 2019). “Ricki-Lee to host Australia's Got Talent”. tvtonight.com.au. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2019.
  44. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Return 2019
  45. ^ “Australia's Got Talent: Viewers angry over voting app fail”., news.com.au, 23 September 2019
  46. ^ “Kristy Sellars wins Australia's Got Talent 2019”., TV Tonight, 23 September 2019
  47. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Knox
  48. ^ Knox, David (29 tháng 6 năm 2021). “Seven postpones Australia's Got Talent”. TV Tonight. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2021.
  49. ^ Knox, David (12 tháng 10 năm 2021). “Upfronts 2022: Seven”. TV Tonight. TV Tonight. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2021.
  50. ^ Molk, Steve (12 tháng 10 năm 2021). “Upfronts: MKR + House Rules resurrected; Australian Idol returns; new drama Claremont - Seven in 2022”. TV Tonight. TV Black Box. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2021.