Thành viên:Bùi Thụy Đào Nguyên/Nháp

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Cây cầu này đã được đưa vào sử dụng từ tháng 8/2012, với tên gọi là “cầu đường bộ bắc qua sông Hương” hay “cầu đường bộ Bạch Hổ”.

Nhưng sau khi lấy ý kiến của nhân dân trên địa bàn và những người yêu Huế ở trong và ngoài nước, Hội đồng Nhân dân tỉnh Thừa Thiên-Huế đã biểu quyết thông qua với hơn 77% số phiếu tán thành, và chính thức đặt tên là cầu Dã Viên.[3]Cập nhật, 19:06, Thứ Hai, 10/12/2012

Bến đá Kỳ Cùng ngày nay

Bến đá Kỳ Cùng nằm bên hữu ngạn sông Kỳ Cùng và gần cầu Kỳ Lừa; nay thuộc thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam.

Căn cứ theo bia di tích dựng tại Bến đá Kỳ Cùng, thì đây chính là nơi đưa đón các đoàn sứ Trung QuốcViệt Nam trong lịch sử bang giao giữa hai nước từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 19.

Khoảng năm 1778, Đốc trấn Ngô Thì Sĩ gọi đây là Kỳ Cùng Thạch độ, và liệt là một trong 8 cảnh đẹp của trấn lỵ Lạng Sơn (Trấn doanh bát cảnh) [1].

Ngày nay, nơi bến đá ấy chỉ còn lại một ngôi chùa cổ, tên là Diên Khánh Tự (tục gọi là chùa Thành). Chưa biết năm khởi dựng, chỉ biết trong chùa hiện còn lưu giữ một quả chuông nặng 600 kg, được đúc từ năm 1671, dưới triều vua Lê Hiển Tông [2].

Năm 1993, Bến đá Kỳ Cùng đã được công nhận là di tích cấp quốc gia.

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Đền Kỳ Cùng. Đây cũng là một di tích cấp quốc gia (1993), nằm đối diện với Bến đá Kỳ Cùng, nhưng ở bên kia sông.
  • Chùa Thành (Diên Khánh Tự)

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Theo chú thích của Ngô Thì Sĩ đề ở bài thơ Trấn Doanh bát cảnh, thì 8 cảnh đẹp ấy là: Quán Khách Đoàn Thành, Phố chợ Kỳ Lừa, Chân núi Thành Tâm, Khe suối động Nhị Thanh, chùa Tam Thanh, Thôn xóm Hoành Dương, Chòi canh Dương Lĩnh, Song tiên động (tên cũ là Đại tượng Phật tích).
  2. ^ Xem [1], hay ở đây [2].

[[Thể loại:Đền Việt Nam‎ [[Thể loại:Di tích tại Lạng Sơn [[Thể loại: Di tích quốc gia Việt Nam