Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Opisthocoelicaudia”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 21: Dòng 21:
| binomial_authority = [[Maria Magdalena Borsuk-Białynicka|Borsuk-Białynicka]], 1977
| binomial_authority = [[Maria Magdalena Borsuk-Białynicka|Borsuk-Białynicka]], 1977
}}
}}
'''''Opisthocoelicaudia''''' là một chi [[khủng long]] [[khủng long chân thằn lằn|chân thằn lằn]] sinh sống vào thời kỳ [[Creta muộn]] tại nơi ngày nay là [[sa mạc Gobi]] của [[Mông Cổ]]. [[Loài điển hình]] là ''Opisthocoelicaudia skarzynskii''. Một bộ xương được bảo quản tốt chỉ thiếu phần đầu và cổ đã được các nhà khoa học Ba Lan và Mông Cổ khai quật vào năm 1965, khiến Opisthocoelicaudia trở thành một trong những loài [[sauropoda|khủng long chân thằn lằn]] được biết đến nhiều nhất từ ​​[[kỷ Phấn trắng]] muộn. Dấu răng trên bộ xương này cho thấy những con khủng long ăn thịt lớn đã ăn xác và có thể đã mang đi những phần cơ thể hiện đã mất đi. Cho đến nay, chỉ có hai mẫu vật bổ sung, ít hoàn chỉnh hơn nhiều được biết đến, bao gồm một phần vai và một phần đuôi rời rạc. Là một loài sauropod tương đối nhỏ, Opisthocoelicaudia có chiều dài khoảng 11,4–13 m. Giống như các loài [[sauropoda|khủng long chân thằn lằn]] khác, nó có đặc điểm là có cái đầu nhỏ ngồi trên chiếc cổ rất dài và thân hình thùng được mang bởi bốn chân giống như cột. Cái tên Opisthocoelicaudia có nghĩa là "đuôi khoang sau", ám chỉ tình trạng opisthocoel bất thường của các đốt sống đuôi trước bị lõm ở mặt sau của chúng. Điều này và các đặc điểm khác của bộ xương khiến các nhà nghiên cứu đề xuất rằng Opisthocoelicaudia có thể đứng trên hai chân sau của nó.
'''''Opisthocoelicaudia''''' là một chi [[khủng long]] [[khủng long chân thằn lằn|chân thằn lằn]] sinh sống vào thời kỳ [[Creta muộn]] tại nơi ngày nay là [[sa mạc Gobi]] của [[Mông Cổ]]. [[Loài điển hình]] là ''Opisthocoelicaudia skarzynskii''. Một bộ xương được bảo quản tốt chỉ thiếu phần đầu và cổ đã được các nhà khoa học Ba Lan và Mông Cổ khai quật từ ngày 10 đến ngày 23 tháng 6 năm 1965, trong chuyến thám hiểm cổ sinh vật học chung Ba Lan-Mông Cổ do nhà cổ sinh vật học Ba Lan [[Zofia Kielan-Jaworowska]] dẫn đầu.<ref name="kielan-jaworowska_1968">{{cite journal |first=Z. |last=Kielan-Jaworowska |author2=Dovchin, N. |year=1968 |title=Narrative of the Polish-Mongolian Expeditions 1963–1965 |pages=7–40 |journal=Palaeontologia Polonica |volume=19 |url=http://palaeontologia.pan.pl/Archive/1968-19_7-30_1-4.pdf}}</ref><ref name="kielan-jaworowska2013">{{Cite book |publisher=Indiana University Press |isbn=978-0-253-00817-6 |last=Kielan-Jaworowska |first=Z. |title=In Pursuit of Early Mammals |date=2013 |chapter=The Polish-Mongolian paleontological expeditions, 1963–1971, and the nomadic expedition, 2002 |pages=35–70}}</ref>, khiến Opisthocoelicaudia trở thành một trong những loài [[sauropoda|khủng long chân thằn lằn]] được biết đến nhiều nhất từ ​​[[kỷ Phấn trắng]] muộn. Dấu răng trên bộ xương này cho thấy những con khủng long ăn thịt lớn đã ăn xác và có thể đã mang đi những phần cơ thể hiện đã mất đi. Cho đến nay, chỉ có hai mẫu vật bổ sung, ít hoàn chỉnh hơn nhiều được biết đến, bao gồm một phần vai và một phần đuôi rời rạc. Là một loài sauropod tương đối nhỏ, Opisthocoelicaudia có chiều dài khoảng 11,4–13 m và cân nặng {{convert|25.4|t|lb|abbr=on}.<ref name="Bensonetal2014">{{Cite journal | doi = 10.1371/journal.pbio.1001853| pmid = 24802911| title = Rates of Dinosaur Body Mass Evolution Indicate 170 Million Years of Sustained Ecological Innovation on the Avian Stem Lineage| journal = PLOS Biology| volume = 12| issue = 5| pages = e1001853| year = 2014| last1 = Benson | first1 = R. B. J. | last2 = Campione | first2 = N. S. E. | last3 = Carrano | first3 = M. T. | last4 = Mannion | first4 = P. D. | last5 = Sullivan | first5 = C. | last6 = Upchurch | first6 = P. | last7 = Evans | first7 = D. C. | pmc=4011683}}</ref> Giống như các loài [[sauropoda|khủng long chân thằn lằn]] khác, nó có đặc điểm là có cái đầu nhỏ ngồi trên chiếc cổ rất dài và thân hình thùng được mang bởi bốn chân giống như cột. Cái tên Opisthocoelicaudia có nghĩa là "đuôi khoang sau", ám chỉ tình trạng opisthocoel bất thường của các đốt sống đuôi trước bị lõm ở mặt sau của chúng. Điều này và các đặc điểm khác của bộ xương khiến các nhà nghiên cứu đề xuất rằng Opisthocoelicaudia có thể đứng trên hai chân sau của nó.
==Xem thêm==
==Xem thêm==
{{portal|Khủng long}}
{{portal|Khủng long}}

Phiên bản lúc 03:43, ngày 18 tháng 9 năm 2020

Opisthocoelicaudia
Thời điểm hóa thạch: Creta muộn, 70 triệu năm trước đây
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Nhánh Craniata
Phân ngành (subphylum)Vertebrata
Phân thứ ngành (infraphylum)Gnathostomata
Liên lớp (superclass)Tetrapoda
Nhánh Dinosauria
Phân bộ (subordo)Sauropodomorpha
Phân thứ bộ (infraordo)Sauropoda
(không phân hạng)Titanosauria
Chi (genus)Opisthocoelicaudia
Borsuk-Bialynicka, 1977
Loài (species)O. skarzynskii
Danh pháp hai phần
Opisthocoelicaudia skarzynskii
Borsuk-Białynicka, 1977

Opisthocoelicaudia là một chi khủng long chân thằn lằn sinh sống vào thời kỳ Creta muộn tại nơi ngày nay là sa mạc Gobi của Mông Cổ. Loài điển hìnhOpisthocoelicaudia skarzynskii. Một bộ xương được bảo quản tốt chỉ thiếu phần đầu và cổ đã được các nhà khoa học Ba Lan và Mông Cổ khai quật từ ngày 10 đến ngày 23 tháng 6 năm 1965, trong chuyến thám hiểm cổ sinh vật học chung Ba Lan-Mông Cổ do nhà cổ sinh vật học Ba Lan Zofia Kielan-Jaworowska dẫn đầu.[1][2], khiến Opisthocoelicaudia trở thành một trong những loài khủng long chân thằn lằn được biết đến nhiều nhất từ ​​kỷ Phấn trắng muộn. Dấu răng trên bộ xương này cho thấy những con khủng long ăn thịt lớn đã ăn xác và có thể đã mang đi những phần cơ thể hiện đã mất đi. Cho đến nay, chỉ có hai mẫu vật bổ sung, ít hoàn chỉnh hơn nhiều được biết đến, bao gồm một phần vai và một phần đuôi rời rạc. Là một loài sauropod tương đối nhỏ, Opisthocoelicaudia có chiều dài khoảng 11,4–13 m và cân nặng {{convert|25.4|t|lb|abbr=on}.[3] Giống như các loài khủng long chân thằn lằn khác, nó có đặc điểm là có cái đầu nhỏ ngồi trên chiếc cổ rất dài và thân hình thùng được mang bởi bốn chân giống như cột. Cái tên Opisthocoelicaudia có nghĩa là "đuôi khoang sau", ám chỉ tình trạng opisthocoel bất thường của các đốt sống đuôi trước bị lõm ở mặt sau của chúng. Điều này và các đặc điểm khác của bộ xương khiến các nhà nghiên cứu đề xuất rằng Opisthocoelicaudia có thể đứng trên hai chân sau của nó.

Xem thêm

Chú thích

  1. ^ Kielan-Jaworowska, Z.; Dovchin, N. (1968). “Narrative of the Polish-Mongolian Expeditions 1963–1965” (PDF). Palaeontologia Polonica. 19: 7–40.
  2. ^ Kielan-Jaworowska, Z. (2013). “The Polish-Mongolian paleontological expeditions, 1963–1971, and the nomadic expedition, 2002”. In Pursuit of Early Mammals. Indiana University Press. tr. 35–70. ISBN 978-0-253-00817-6.
  3. ^ Benson, R. B. J.; Campione, N. S. E.; Carrano, M. T.; Mannion, P. D.; Sullivan, C.; Upchurch, P.; Evans, D. C. (2014). “Rates of Dinosaur Body Mass Evolution Indicate 170 Million Years of Sustained Ecological Innovation on the Avian Stem Lineage”. PLOS Biology. 12 (5): e1001853. doi:10.1371/journal.pbio.1001853. PMC 4011683. PMID 24802911.