Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kỳ tích châu Âu”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Trang mới: “{{đang viết}} thumb|320px|Ước tính GDP bình quân đầu người của các quốc gia châu Âu và châu Á từ năm 1500-1950 với [[sức mua tương đương theo dollar quốc tế năm 1990 của nhà kinh tế học Angus Maddison,{{sfn|Maddison|2007|p=382|loc=Table A.7}} cho thấy sự tăng trưởng vượt bậc của Tây Âu và Nhật Bản đầu thế kỷ 19.]] File:European Outpu…”
 
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 6: Dòng 6:
Các học giả đã đề xuất nhiều giả thuyết khác nhau để giải thích hiện tượng này; từ [[địa lý]], [[văn hóa]], [[thể chế]], [[chủ nghĩa thực dân]], [[tài nguyên]] đến đơn thuần chỉ là ngẫu nhiên.<ref name=":10">{{Cite book |title=Global Economic History: A Very Short Introduction |first=Robert C. |last=Allen |isbn=978-0-19-959665-2 |publisher=Oxford University Press Canada |year=2011 |quote=Why has the world become increasingly unequal? Both 'fundamentals' like geography, institutions, or culture and 'accidents of history' played a role.}}</ref> Vẫn còn có tranh cãi trong giới học giả về danh pháp của sự kiện này, vì khởi điểm của sự phân tầng thường được đề xuất là vào thế kỷ 16, hoặc thậm chí sớm hơn vào thế kỷ 15, khi cuộc [[cách mạng thương mại]] đang diễn ra và [[chủ nghĩa trọng thương]] cùng [[chủ nghĩa tư bản]] bắt đầu phát triển trong [[thời kỳ Phục hưng]] và [[thời đại Khám phá]], kéo theo đó là sự trỗi dậy của các đế chế thực dân châu Âu, [[proto-toàn cầu hóa]], [[cách mạng Khoa học]], hay [[thời đại Khai sáng]].<ref>{{Cite web|url=https://pseudoerasmus.com/2014/06/12/the-little-divergence/|title=The Little Divergence|last=pseudoerasmus|date=2014-06-12|website=pseudoerasmus|access-date=2017-08-19}}</ref><ref>{{Cite news|url=http://hbswk.hbs.edu/item/business-history-the-great-divergence-and-the-great-convergence|title=Business History, the Great Divergence and the Great Convergence|date=2017-08-01|work=HBS Working Knowledge|access-date=2017-08-19|language=en-us}}</ref><ref>{{Cite web|url=http://www.oapen.org/download?type=document&docid=626977|title=Escaping Poverty|last=Vries|first=Peer}}</ref><ref name=":13">{{Cite journal|date=2018-12-01|title=Japan and the great divergence, 730–1874|journal=Explorations in Economic History|volume=72|pages=1–22|language=en|doi=10.1016/j.eeh.2018.11.005|issn=0014-4983|last1=Bassino|first1=Jean-Pascal|last2=Broadberry|first2=Stephen|last3=Fukao|first3=Kyoji|last4=Gupta|first4=Bishnupriya|last5=Takashima|first5=Masanori|hdl=10086/29758|s2cid=134669975|url=http://www2.warwick.ac.uk/fac/soc/economics/research/centres/cage/manage/publications/230-2015__broadberry_gupta.pdf}}</ref> Tuy vậy, bước nhảy vọt lớn nhất xảy ra vào cuối thế kỷ 18 và 19 với cuộc [[cách mạng Công nghiệp]] và [[Cách mạng công nghiệp lần thứ hai|cách mạng Công nghệ]]. Vì lý do này, "trường phái California" chỉ coi đây là "đại" sự kiện duy nhất.{{sfn|Pomeranz|2000|pp=36, 219–225}}{{sfn|Hobson|2004|p=77}}{{sfn|Bairoch|1995|pp=101–108}}<ref>{{Cite journal|last=Goldstone|first=Jack A.|date=2015-04-26|title=The Great and Little Divergence: Where Lies the True Onset of Modern Economic Growth?|location=Rochester, NY|ssrn=2599287}}</ref>
Các học giả đã đề xuất nhiều giả thuyết khác nhau để giải thích hiện tượng này; từ [[địa lý]], [[văn hóa]], [[thể chế]], [[chủ nghĩa thực dân]], [[tài nguyên]] đến đơn thuần chỉ là ngẫu nhiên.<ref name=":10">{{Cite book |title=Global Economic History: A Very Short Introduction |first=Robert C. |last=Allen |isbn=978-0-19-959665-2 |publisher=Oxford University Press Canada |year=2011 |quote=Why has the world become increasingly unequal? Both 'fundamentals' like geography, institutions, or culture and 'accidents of history' played a role.}}</ref> Vẫn còn có tranh cãi trong giới học giả về danh pháp của sự kiện này, vì khởi điểm của sự phân tầng thường được đề xuất là vào thế kỷ 16, hoặc thậm chí sớm hơn vào thế kỷ 15, khi cuộc [[cách mạng thương mại]] đang diễn ra và [[chủ nghĩa trọng thương]] cùng [[chủ nghĩa tư bản]] bắt đầu phát triển trong [[thời kỳ Phục hưng]] và [[thời đại Khám phá]], kéo theo đó là sự trỗi dậy của các đế chế thực dân châu Âu, [[proto-toàn cầu hóa]], [[cách mạng Khoa học]], hay [[thời đại Khai sáng]].<ref>{{Cite web|url=https://pseudoerasmus.com/2014/06/12/the-little-divergence/|title=The Little Divergence|last=pseudoerasmus|date=2014-06-12|website=pseudoerasmus|access-date=2017-08-19}}</ref><ref>{{Cite news|url=http://hbswk.hbs.edu/item/business-history-the-great-divergence-and-the-great-convergence|title=Business History, the Great Divergence and the Great Convergence|date=2017-08-01|work=HBS Working Knowledge|access-date=2017-08-19|language=en-us}}</ref><ref>{{Cite web|url=http://www.oapen.org/download?type=document&docid=626977|title=Escaping Poverty|last=Vries|first=Peer}}</ref><ref name=":13">{{Cite journal|date=2018-12-01|title=Japan and the great divergence, 730–1874|journal=Explorations in Economic History|volume=72|pages=1–22|language=en|doi=10.1016/j.eeh.2018.11.005|issn=0014-4983|last1=Bassino|first1=Jean-Pascal|last2=Broadberry|first2=Stephen|last3=Fukao|first3=Kyoji|last4=Gupta|first4=Bishnupriya|last5=Takashima|first5=Masanori|hdl=10086/29758|s2cid=134669975|url=http://www2.warwick.ac.uk/fac/soc/economics/research/centres/cage/manage/publications/230-2015__broadberry_gupta.pdf}}</ref> Tuy vậy, bước nhảy vọt lớn nhất xảy ra vào cuối thế kỷ 18 và 19 với cuộc [[cách mạng Công nghiệp]] và [[Cách mạng công nghiệp lần thứ hai|cách mạng Công nghệ]]. Vì lý do này, "trường phái California" chỉ coi đây là "đại" sự kiện duy nhất.{{sfn|Pomeranz|2000|pp=36, 219–225}}{{sfn|Hobson|2004|p=77}}{{sfn|Bairoch|1995|pp=101–108}}<ref>{{Cite journal|last=Goldstone|first=Jack A.|date=2015-04-26|title=The Great and Little Divergence: Where Lies the True Onset of Modern Economic Growth?|location=Rochester, NY|ssrn=2599287}}</ref>


Những tiến bộ công nghệ trong các lĩnh vực [[đường sắt]], [[tàu chạy bằng hơi nước]], [[khai thác mỏ]] và [[nông nghiệp]] được đón nhận nồng hậu hơn ở phương Tây so với phương Đông trong thời kỳ Đại phân tầng. Công nghệ dẫn đến sự gia tăng công nghiệp hóa và sự phức tạp hóa nền kinh tế trong ngành lĩnh vực nghiệp, thương mại, nhiên liệu và tài nguyên, tiếp tục tách biệt phương Đông với phương Tây. Việc sử dụng than đá để thay thế gỗ củi làm nhiên liệu ở Tây Âu vào giữa thế kỷ 19 tạo ra cú thúc đẩy quan trọng trong ngành sản xuất năng lượng hiện đại. Vào thế kỷ 20, sự Đại phân kỳ đạt đến đỉnh điểm trước [[Chiến tranh thế giới thứ nhất]] và kéo dài cho đến đầu những năm 1970. Sau hai thập kỷ biến động bất thường tới cuối những năm 1980, Đại phân kì nhường đường cho sự Đại hội tụ khi mà [[Nước đang phát triển|các quốc gia Thế giới thứ ba]] đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn đáng kể so với hầu hết các [[Thế giới thứ nhất|quốc gia Thế giới thứ nhất]].<ref>{{cite journal|last1=Korotayev|first1=Andrey|last2=Zinkina|first2=Julia|last3=Goldstone|first3=Jack|url=https://www.academia.edu/12812235|title=Phases of global demographic transition correlate with phases of the Great Divergence and Great Convergence|journal=Technological Forecasting and Social Change|volume=95|date=June 2015|pages=163–169|doi=10.1016/j.techfore.2015.01.017}}</ref>
Những tiến bộ công nghệ trong các lĩnh vực [[đường sắt]], [[thuyền hơi nước]], [[khai thác mỏ]] và [[nông nghiệp]] được đón nhận nồng hậu hơn ở phương Tây so với phương Đông trong thời kỳ Đại phân tầng. Công nghệ dẫn đến sự gia tăng công nghiệp hóa và sự phức tạp hóa nền kinh tế trong ngành lĩnh vực nghiệp, thương mại, nhiên liệu và tài nguyên, tiếp tục tách biệt phương Đông với phương Tây. Việc sử dụng than đá để thay thế gỗ củi làm nhiên liệu ở Tây Âu vào giữa thế kỷ 19 tạo ra cú thúc đẩy quan trọng trong ngành sản xuất năng lượng hiện đại. Vào thế kỷ 20, sự Đại phân kỳ đạt đến đỉnh điểm trước [[chiến tranh thế giới thứ nhất]] và kéo dài cho đến đầu những năm 1970. Sau hai thập kỷ biến động bất thường tới cuối những năm 1980, Đại phân kì nhường đường cho sự Đại hội tụ khi mà [[Nước đang phát triển|các quốc gia Thế giới thứ ba]] đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn đáng kể so với hầu hết các [[Thế giới thứ nhất|quốc gia Thế giới thứ nhất]].<ref>{{cite journal|last1=Korotayev|first1=Andrey|last2=Zinkina|first2=Julia|last3=Goldstone|first3=Jack|url=https://www.academia.edu/12812235|title=Phases of global demographic transition correlate with phases of the Great Divergence and Great Convergence|journal=Technological Forecasting and Social Change|volume=95|date=June 2015|pages=163–169|doi=10.1016/j.techfore.2015.01.017}}</ref>


==Điều kiện ở các lõi tiền-Đại phân tầng==
==Điều kiện ở các lõi tiền-Đại phân tầng==
{{Quote box|width=25%|quote="Tại sao các Thiên chúa quốc, từng rất yếu kém so với các Hồi giáo quốc trong quá khứ lại bắt đầu thống trị nhiều vùng đất thời hiện đại như vậy và có thể đánh bại quân đội Ottoman hùng mạnh một thuở?"..."Bởi lẽ họ có luật lệ và phép tắc dựa theo lý tính."|source=[[Ibrahim Muteferrika]], ''Cơ sở lý tính về Chính trị của các Quốc gia'' (1731)<ref>{{cite web|url=http://www.ted.com/talks/niall_ferguson_the_6_killer_apps_of_prosperity.html|title=The 6 killer apps of prosperity|date=11 August 2017|website=Ted.com|access-date=11 August 2017}}</ref>
Không giống như các nền kinh tế công nghiệp hiện đại, các nền kinh tế tiền hiện đại bị hạn chế bởi nhiều yếu tố. Tuy các vùng lõi Âu-Á đã đạt được mức sống tương đối cao vào thế kỷ 18, tình trạng thiếu đất, thoái hóa đất, nạn phá rừng, thiếu thốn nguồn năng lượng đáng tin cậy và các hạn chế sinh thái khác đã kìm hãm sự tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người tiền hiện đại.[27] Tốc độ khấu hao vốn nhanh chóng khiến cho phần lớn số lãi dôi ra được dùng để thay thế nguồn vốn đã cạn kiệt, cản trở sự [[tích lũy tư bản]].[28] Nhiên liệu, đất đai, lương thực và các nguồn tài nguyên khác là cần thiết để duy trì tăng trưởng và tích lũy tư bản, cuối cùng dẫn đến [[chủ nghĩa thực dân]].[29] Cách mạng Công nghiệp đã khắc phục được những hạn chế này, cho phép thu nhập bình quân đầu người tăng trưởng nhanh và bền vững lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại.
}}
Không giống như các nền kinh tế công nghiệp hiện đại, các nền kinh tế tiền hiện đại bị hạn chế bởi nhiều yếu tố. Tuy các vùng lõi Âu-Á đã đạt được mức sống tương đối cao vào thế kỷ 18, tình trạng thiếu đất, thoái hóa đất, nạn phá rừng, thiếu thốn nguồn năng lượng đáng tin cậy và các hạn chế sinh thái khác đã kìm hãm sự tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người tiền hiện đại.{{sfn|Pomeranz|2000|p=219}} Tốc độ khấu hao vốn nhanh chóng khiến cho phần lớn số lãi dôi ra được dùng để thay thế nguồn vốn đã cạn kiệt, cản trở sự [[tích lũy tư bản]].{{sfn|Pomeranz|2000|p=187}} Nhiên liệu, đất đai, lương thực và các nguồn tài nguyên khác là cần thiết để duy trì tăng trưởng và tích lũy tư bản, cuối cùng dẫn đến [[chủ nghĩa thực dân]].{{sfn|Pomeranz|2000|p=241}} Cách mạng Công nghiệp đã khắc phục được những hạn chế này, cho phép thu nhập bình quân đầu người tăng trưởng nhanh và bền vững lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại.


===Tây Âu===
===Tây Âu===
Sau khi những cuộc xâm lược của [[người Viking]], [[Những cuộc xâm lược của người Hồi giáo|người Hồi]] và [[Người Magyar xâm lược châu Âu|người Magyar]] (Hungary) lắng xuống vào thế kỷ thứ 10, châu Âu bước vào thời kỳ thịnh vượng, dân số tăng nhanh và buôn bán giao thương được hồi sinh gọi là [[Trung kỳ Trung Cổ]]. Vào thế kỷ 13, các vùng đất tốt hầu hết đã được định cư và thu nhập từ nông nghiệp bắt đầu giảm còn thương mại tiếp tục được mở rộng, đặc biệt là ở [[Venice]] và nhiều thành bang phía bắc nước Ý. Châu Âu trải qua nhiều đợt thảm họa vào thế kỷ 14: nạn đói, chiến tranh, [[Cái chết đen]] và bệnh dịch hoành hành dẫn đến sự suy giảm dân số, khiến cho thuế khoán giảm và tiền công tăng, làm suy yếu các mối quan hệ phong kiến ​​và thái ấp vốn là các đặc trưng của châu Âu thời Trung cổ. [30]
Sau khi những cuộc xâm lược của [[người Viking]], [[Những cuộc xâm lược của người Hồi giáo|người Hồi]] và [[Người Magyar xâm lược châu Âu|người Magyar]] (Hungary) lắng xuống vào thế kỷ thứ 10, châu Âu bước vào thời kỳ thịnh vượng, dân số tăng nhanh và buôn bán giao thương được hồi sinh gọi là [[Trung kỳ Trung Cổ]]. Vào thế kỷ 13, các vùng đất tốt hầu hết đã được định cư và thu nhập từ nông nghiệp bắt đầu giảm còn thương mại tiếp tục được mở rộng, đặc biệt là ở [[Venice]] và nhiều thành bang phía bắc nước Ý. Châu Âu trải qua nhiều đợt thảm họa vào thế kỷ 14: nạn đói, chiến tranh, [[Cái chết đen]] và bệnh dịch hoành hành dẫn đến sự suy giảm dân số, khiến cho thuế khoán giảm và tiền công tăng, làm suy yếu các mối quan hệ phong kiến ​​và thái ấp vốn là các đặc trưng của châu Âu thời Trung cổ.{{sfn|North|Thomas|1973|pp=11–13}}


Theo một nghiên cứu năm 2014, "có ít 'sự tiểu phân tầng' ở châu Âu trong khoảng thời gian từ năm 1300 đến năm 1800: mức [[tiền công]] thực tế ở khu vực [[Biển Bắc]] ổn định ít nhiều ở mức đạt được sau Cái chết Đen, và vẫn tương đối cao (trên mức đủ sống) trong suốt đầu thời kỳ cận đại (và vào thế kỷ 19), trong khi tiền công thực tế ở 'vùng ngoại vi' (Đức, Ý và Tây Ban Nha) bắt đầu suy giảm sau thế kỷ 15 và trở về mức sinh hoạt tối thiểu trong giai đoạn 1500–1800. 'Sự tiểu phân tầng' này trong tiền công thực tế phản ánh sự phân tầng tương tự về GDP bình quân đầu người: ở 'vùng ngoại vi' của Châu Âu hầu như không có tăng trưởng bình quân đầu người (hoặc thậm chí là giảm sút) trong khoảng từ 1500 đến 1800, còn ở Hà Lan và Anh thì thu nhập thực tế tiếp tục tăng và chắc hẳn đã gấp đôi trong thời kỳ này."[31]
Theo một nghiên cứu năm 2014, "có ít 'sự tiểu phân tầng' ở châu Âu trong khoảng thời gian từ năm 1300 đến năm 1800: mức [[tiền công]] thực tế ở khu vực [[Biển Bắc]] ổn định ít nhiều ở mức đạt được sau Cái chết Đen, và vẫn tương đối cao (trên mức đủ sống) trong suốt đầu thời kỳ cận đại (và vào thế kỷ 19), trong khi tiền công thực tế ở 'vùng ngoại vi' (Đức, Ý và Tây Ban Nha) bắt đầu suy giảm sau thế kỷ 15 và trở về mức sinh hoạt tối thiểu trong giai đoạn 1500–1800. 'Sự tiểu phân tầng' này trong tiền công thực tế phản ánh sự phân tầng tương tự về GDP bình quân đầu người: ở 'vùng ngoại vi' của Châu Âu hầu như không có tăng trưởng bình quân đầu người (hoặc thậm chí là giảm sút) trong khoảng từ 1500 đến 1800, còn ở Hà Lan và Anh thì thu nhập thực tế tiếp tục tăng và chắc hẳn đã gấp đôi trong thời kỳ này."<ref>{{Cite journal|last1=Bolt|first1=Jutta|last2=van Zanden|first2=Jan Luiten|date=2014-08-01|title=The Maddison Project: collaborative research on historical national accounts|journal=The Economic History Review|language=en|volume=67|issue=3|pages=627–651|doi=10.1111/1468-0289.12032|s2cid=154189498|issn=1468-0289}}</ref>


Trong [[thời đại Khám phá]], các nhà hàng hải đã khám phá ra các hải tuyến mới đến Châu Mỹ và Châu Á. [[Thương mại]] mở rộng cùng với những sáng kiến mới như [[công ty cổ phần]] và các thể loại tổ chức tài chính. Các công nghệ quân sự mới dẫn đến sự tập trung quyền lực vào tay các nhà nước có tài chính phụ thuộc vào thương mại. Pháp và Tây Ban Nha phát triển nền [[quân chủ tuyệt đối]] dựa trên nguồn thuế khoán cao và các chế độ độc quyền do nhà nước ban hành, dẫn đến sự suy giảm kinh tế. [[Cộng hòa Hà Lan]] bị chi phối bởi hầu hết là thương gia và nước Anh bị chi phối bởi phe [[Nghị viện Anh|nghị viện]] sau một cuộc đấu tranh lâu dài mà đỉnh cao là [[Cách mạng Vinh quang]] góp phần tạo nên lợi thế kinh tế ở các nước này.[32] Vào cuối thế kỷ 16, London và Antwerp bắt đầu vượt lên các thành phố khác ở châu Âu, được minh họa trong biểu đồ sau về tiền công thực tế ở một số thành phố châu Âu:{{sfn|Allen|2001}}
Trong [[thời đại Khám phá]], các nhà hàng hải đã khám phá ra các hải tuyến mới đến Châu Mỹ và Châu Á. [[Thương mại]] mở rộng cùng với những sáng kiến mới như [[công ty cổ phần]] và các thể loại tổ chức tài chính. Các công nghệ quân sự mới dẫn đến sự tập trung quyền lực vào tay các nhà nước có tài chính phụ thuộc vào thương mại. Pháp và Tây Ban Nha phát triển nền [[quân chủ tuyệt đối]] dựa trên nguồn thuế khoán cao và các chế độ độc quyền do nhà nước ban hành, dẫn đến sự suy giảm kinh tế. [[Cộng hòa Hà Lan]] bị chi phối bởi hầu hết là thương gia và nước Anh bị chi phối bởi phe [[Nghị viện Anh|nghị viện]] sau một cuộc đấu tranh lâu dài mà đỉnh cao là [[Cách mạng Vinh quang]], góp phần tạo dựng lợi thế kinh tế ở các nước này.{{sfn|North|Thomas|1973|pp=16–18}} Vào cuối thế kỷ 16, London và Antwerp phát triển hơn hẳn các thành phố châu Âu khác, được minh họa biểu đồ dưới về tiền công thực tế ở một số thành phố châu Âu:{{sfn|Allen|2001}}
[[File:European cities real wages.png|600px|center]]
[[File:European cities real wages.png|600px|center]]


===Trung Quốc===
===Trung Quốc===
{{main|Lịch sử kinh tế Trung Quốc trước năm 1912}}
Thời [[nhà Tống]] (960–1279), Trung Quốc đã cách mạng hóa nền nông nghiệp, giao thông đường thủy, tài chính, đô thị hóa, khoa học và công nghệ, đưa nền kinh tế Trung Quốc trở thành nền kinh tế tiên tiến nhất thế giới từ khoảng năm 1100.[37][38] Các tiến bộ trong nền canh tác lúa nước đã mở ra nền kinh tế miền nam bấy lâu nay kém phát triển. Miền bắc Trung Quốc sau này thường bị tàn phá bởi các cuộc xâm lược của Nữ Chân và Mông Cổ, thiên tai lũ lụt và dịch bệnh. Điều này dịch chuyển trung tâm dân số và công nghiệp từ quê hương của nền văn minh Trung Quốc quanh sông Hoàng Hà xuống phía nam của đất nước, một xu hướng chỉ bị đảo ngược một phần bởi sự tái định cư dân số phía bắc thế kỷ 15.[39] Đến năm 1300, Trung Quốc nói chung tụt hậu so với Ý về mức sống và đến năm 1400, Anh cũng đã bắt kịp nhưng các khu vực giàu có nhất của Trung Quốc, đặc biệt là đồng bằng sông Dương Tử, rấtthể vẫn ngang bằng với châu Âu cho đến đầu thế kỷ 18.[38][40]
[[File:China Europe population 1000-1975.svg|thumb|So sánh dân số (hàng triệu, mũ log) của Trung Quốc và châu Âu Lục địa giữa năm 1000 và 1975.{{sfn|Feuerwerker|1990|p=227}}]]
Thời [[nhà Tống]] (960–1279), Trung Quốc đã cách mạng hóa nền nông nghiệp, giao thông đường thủy, tài chính, đô thị hóa, khoa học và công nghệ, đưa nền kinh tế Trung Quốc trở thành nền kinh tế tiên tiến nhất thế giới từ khoảng năm 1100.{{sfn|Elvin|1973|pp=7, 113–199}}<ref name=":1">{{Cite journal|last1=Broadberry|first1=Stephen N.|last2=Guan|first2=Hanhui|last3=Li|first3=David D.|date=2017-04-01|title=China, Europe and the Great Divergence: A Study in Historical National Accounting, 980–1850|ssrn=2957511}}</ref> Các tiến bộ trong nền canh tác lúa nước đã mở ra nền kinh tế miền nam bấy lâu nay kém phát triển. Miền bắc Trung Quốc sau này thường bị tàn phá bởi các cuộc xâm lược của Nữ Chân và Mông Cổ, hứng chịu nhiều thiên tai lũ lụt và dịch bệnh. Điều này làm dịch chuyển trung tâm dân số và thủ công nghiệp quanh sông Hoàng Hà xuống phía nam của đất nước, một xu hướng chỉ bị đảo ngược một phần bởi sự tái định cư dân số miền bắc vào thế kỷ 15.{{sfn|Elvin|1973|pp=204–205}} Đến năm 1300, Trung Quốc tựu chung đã tụt hậu so với Ý về mức sống và đến năm 1400 thì Anh đã bắt kịp; tuy vậy các khu vực giàu có nhất của Trung Quốc, đặc biệt là đồng bằng sông Dương Tử, có lẽ vẫn ngang bằng với châu Âu cho đến đầu thế kỷ 18.<ref name=":1" /><ref name=":3">{{Cite news|url=https://www.economist.com/news/china/21723459-how-will-affect-xis-chinese-dream-china-has-been-poorer-europe-longer-party|title=China has been poorer than Europe longer than the party thinks|newspaper=The Economist|access-date=2017-06-22|date=2017-06-15}}</ref>

Từ năm 1368–1911, dưới đời [[nhà Minh]] và [[nhà Thanh]], thuế khoán rất thấp, nền kinh tế và dân số tăng trưởng đáng kể, mặc dù không có sự gia tăng nào về năng suất.[41] Các mặt hàng của Trung Quốc như lụa, trà và gốm sứ có nhu cầu lớn ở châu Âu khiến bạc của người Âu tuôn trào vào Trung Quốc, mở rộng cung ứng tiền tệ và tạo điều kiện cho sự phát triển thị trường cạnh tranh và ổn định.[42] Vào cuối thế kỷ 18, mật độ dân số Trung Quốc vượt qua châu Âu. [43] Trung Quốc có nhiều đại đô thi nhưng ít thị trấn nhỏ hơn so với châu Âu đương thời.[44][45]

===Ấn Độ===
{{main|Lịch sử kinh tế Ấn Độ}}
[[File:1 AD to 2003 AD Historical Trends in global distribution of GDP China India Western Europe USA Middle East.png|thumb|300px|Đóng góp cho GDP toàn cầu của thế giới (PPP) theo [[vùng]] từ năm 1 đến năm 2003 theo ước tính của nhà kinh tế học [[Angus Maddison]].<ref>Bảng số liệu trong Maddison A (2007), Contours of the World Economy I–2030 AD, NXB Đại học Oxford, {{ISBN|978-0-19-922720-4}}</ref> Cho tới thế kỷ 18, Trung Quốc và Ấn Độ là hai vùng cực kỳ năng suất.]]
Theo một nghiên cứu và tập dữ liệu năm 2020, cuộc Đại phân kỳ giữa miền bắc Ấn Độ (từ [[Gujarat]] đến [[Bengal]]) và Anh quốc bắt đầu vào cuối thế kỷ 17. Nó lan rộng sau những năm 1720 và bùng nổ sau những năm 1800.<ref name=":7">{{Cite journal|last1=Zwart|first1=Pim de|last2=Lucassen|first2=Jan|date=2020|title=Poverty or prosperity in northern India? New evidence on real wages, 1590s–1870s†|journal=The Economic History Review|volume=73|issue=3|language=en|pages=644–667|doi=10.1111/ehr.12996|issn=1468-0289|doi-access=free}}</ref> Nghiên cứu phát hiện ra rằng chính "sự bứt phá của Anh quốc và sự trì trệ của Ấn Độ trong nửa đầu thế kỷ 19 đã dẫn đến sự khác biệt rất rõ ràng trong mức sống."<ref name=":7" />

Đến những năm 1500, [[Vương quốc Hồi giáo Bengal]] tại Ấn Độ là một cường quốc thương mại trên thế giới,<ref>{{cite book |last1=Nanda|first1=J.N.|year=2005 | title=Bengal: the unique state | publisher=Concept Publishing Company. p. 10. | isbn=978-81-8069-149-2 | quote=Bengal [...] was rich in the production and export of grain, salt, fruit, liquors and wines, precious metals and ornaments besides the output of its handlooms in silk and cotton. Europe referred to Bengal as the richest country to trade with.}}</ref> hưởng lợi từ cả nội thương lẫn ngoại thương. Nền nông nghiệp cũng như thủ công nghiệp của họ có năng suất rất cao. Không giống như Trung Quốc, Nhật Bản và Tây-Trung Âu, các khu rừng Ấn Độ không được khai thác cho đến thế kỷ 19 và 20. Họ không có cớ gì để phải chuyển sang sử dụng than đá vì gỗ củi vẫn còn dư thừa.{{sfn|Parthasarathi|2011|pp=180–182}} Từ thế kỷ 17, hàng dệt bông từ Đế quốc Mughal Ấn Độ rất được ưa chuộng ở châu Âu, khiến một số chính phủ phải ban lệnh cấm hàng Ấn để bảo vệ ngành công nghiệp len nước nhà.{{sfn|Parthasarathi|2011|pp=59, 128, 138}} [[Subah Bengal]] là khu vực phát triển nhất của Mughal Ấn Độ, trứ danh với ngành dệt may và đóng tàu.<ref>{{cite book |last1=Ray |first1=Indrajit |year=2011 |title=Bengal Industries and the British Industrial Revolution (1757–1857) |url=https://books.google.com/books?id=CHOrAgAAQBAJ&pg=PA57 |publisher=Routledge |pages=57, 90, 174 |isbn=978-1-136-82552-1}}</ref>

Châu Âu lúc bấy giờ rất thèm khát hàng hóa từ Mughal Ấn Độ như là hàng dệt bông, gia vị, ớt, chàm, lụa và diêm tiêu (để sử dụng trong bom, đạn).<ref name="schmidt">{{cite book|url=https://books.google.com/books?id=BqdzCQAAQBAJ&pg=PA100|last1=Schmidt| first1=Karl J.| date=2015 |title=An Atlas and Survey of South Asian History|page=100|publisher=[[Routledge]]|isbn=9781317476818}}</ref> Thời trang châu Âu ngày càng phụ thuộc vào hàng dệt và lụa của Ấn Độ. Trong thế kỷ 17 và 18, hàng Ấn Độ chiếm lĩnh 95% số hàng nhập khẩu từ châu Á của Anh, và riêng hàng từ [[Bengal Subah]] chiếm 40% số hàng nhập khẩu từ châu Á của Hà Lan.<ref name="Prakash">{{cite book|author-link=Om Prakash (historian)|last1=Prakash|first1= Om|chapter-url=http://link.galegroup.com/apps/doc/CX3447600139/WHIC?xid=6b597320|title=History of World Trade Since 1450|chapter=Empire, Mughal|publisher=Gale| date=2006 |pages= 237–240|access-date=3 August 2017}}</ref> Amiya Kumar Bagchi ước tính 10,3% dân số Bihar làm nghề kéo sợi thủ công, 2,3% làm nghề dệt và 9% làm trong các ngành sản xuất khác từ năm 1809–1813 để đáp ứng nhu cầu từ châu Âu.<ref name="williamson">{{Cite web|last1=Williamson|first1=Jeffrey G.|author-link1=Jeffrey G. Williamson|last2=Clingingsmith|first2=David|date=August 2005|title=India's Deindustrialization in the 18th and 19th Centuries|url=http://www.tcd.ie/Economics/staff/orourkek/Istanbul/JGWGEHNIndianDeind.pdf|access-date=2017-05-18|publisher=[[Harvard University]]}}</ref><ref>{{cite book|last1=Bagchi|first1=Amiya|title=Deindustrialization in Gangetic Bihar 1809–1901|date=1976|publisher=New Delhi: People's Publishing House}}</ref> Ngược lại, hàng hóa châu Âu lại không quá đặc sắc đối với thị trường Ấn Độ, vốn đã tự cung tự cấp từ lâu và do đó, người châu Âu xuất khẩu được rất ít hàng hóa sang Ấn Độ, ngoại trừ một số mặt hàng dệt len, kim loại thô và một số xa xỉ phẩm. Sự mất cân bằng thương mại khiến người châu Âu phải xuất một lượng lớn vàng và bạc sang Ấn Độ để chi trả cho số hàng nhập về.<ref name="schmidt"/>


==Tham khảo==
==Tham khảo==
{{tham khảo}}
{{tham khảo|30em}}

Phiên bản lúc 07:46, ngày 12 tháng 12 năm 2021

Ước tính GDP bình quân đầu người của các quốc gia châu Âu và châu Á từ năm 1500-1950 với sức mua tương đương theo dollar quốc tế năm 1990 của nhà kinh tế học Angus Maddison,[1] cho thấy sự tăng trưởng vượt bậc của Tây Âu và Nhật Bản đầu thế kỷ 19.
Biểu đồ cột cho thấy số sách châu Âu giữa năm 500 và 1800 được phát hành theo hệ số 100,000, đặc biệt lớn sau cách mạng In ấn năm 1450.[2]

Kỳ tích châu Âu (tiếng Anh: European miracle) hay Đại phân tầng/phân kỳ (tiếng Anh: Great Divergence) là một khái niệm chỉ sự chuyển dịch kinh tế xã hội khi mà thế giới phương Tây (ở đây chỉ đề cập đến Tây Âu và các thuộc địa của họ ở Tân Thế giới) thoát khỏi ngưỡng hạn chế tăng trưởng thời tiền hiện đại; soán ngôi các nền kinh tế mạnh bấy giờ như Đế quốc Mogul Ấn Độ, Nhà Thanh Trung Quốc, Triều Joseon Hàn QuốcMạc phủ Tokugawa Nhật Bản; để trở thành những nền kinh tế hàng đầu trong thế kỷ 19.

Các học giả đã đề xuất nhiều giả thuyết khác nhau để giải thích hiện tượng này; từ địa lý, văn hóa, thể chế, chủ nghĩa thực dân, tài nguyên đến đơn thuần chỉ là ngẫu nhiên.[3] Vẫn còn có tranh cãi trong giới học giả về danh pháp của sự kiện này, vì khởi điểm của sự phân tầng thường được đề xuất là vào thế kỷ 16, hoặc thậm chí sớm hơn vào thế kỷ 15, khi cuộc cách mạng thương mại đang diễn ra và chủ nghĩa trọng thương cùng chủ nghĩa tư bản bắt đầu phát triển trong thời kỳ Phục hưngthời đại Khám phá, kéo theo đó là sự trỗi dậy của các đế chế thực dân châu Âu, proto-toàn cầu hóa, cách mạng Khoa học, hay thời đại Khai sáng.[4][5][6][7] Tuy vậy, bước nhảy vọt lớn nhất xảy ra vào cuối thế kỷ 18 và 19 với cuộc cách mạng Công nghiệpcách mạng Công nghệ. Vì lý do này, "trường phái California" chỉ coi đây là "đại" sự kiện duy nhất.[8][9][10][11]

Những tiến bộ công nghệ trong các lĩnh vực đường sắt, thuyền hơi nước, khai thác mỏnông nghiệp được đón nhận nồng hậu hơn ở phương Tây so với phương Đông trong thời kỳ Đại phân tầng. Công nghệ dẫn đến sự gia tăng công nghiệp hóa và sự phức tạp hóa nền kinh tế trong ngành lĩnh vực nghiệp, thương mại, nhiên liệu và tài nguyên, tiếp tục tách biệt phương Đông với phương Tây. Việc sử dụng than đá để thay thế gỗ củi làm nhiên liệu ở Tây Âu vào giữa thế kỷ 19 tạo ra cú thúc đẩy quan trọng trong ngành sản xuất năng lượng hiện đại. Vào thế kỷ 20, sự Đại phân kỳ đạt đến đỉnh điểm trước chiến tranh thế giới thứ nhất và kéo dài cho đến đầu những năm 1970. Sau hai thập kỷ biến động bất thường tới cuối những năm 1980, Đại phân kì nhường đường cho sự Đại hội tụ khi mà các quốc gia Thế giới thứ ba đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn đáng kể so với hầu hết các quốc gia Thế giới thứ nhất.[12]

Điều kiện ở các lõi tiền-Đại phân tầng

"Tại sao các Thiên chúa quốc, từng rất yếu kém so với các Hồi giáo quốc trong quá khứ lại bắt đầu thống trị nhiều vùng đất thời hiện đại như vậy và có thể đánh bại quân đội Ottoman hùng mạnh một thuở?"..."Bởi lẽ họ có luật lệ và phép tắc dựa theo lý tính."

Ibrahim Muteferrika, Cơ sở lý tính về Chính trị của các Quốc gia (1731)[13]

Không giống như các nền kinh tế công nghiệp hiện đại, các nền kinh tế tiền hiện đại bị hạn chế bởi nhiều yếu tố. Tuy các vùng lõi Âu-Á đã đạt được mức sống tương đối cao vào thế kỷ 18, tình trạng thiếu đất, thoái hóa đất, nạn phá rừng, thiếu thốn nguồn năng lượng đáng tin cậy và các hạn chế sinh thái khác đã kìm hãm sự tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người tiền hiện đại.[14] Tốc độ khấu hao vốn nhanh chóng khiến cho phần lớn số lãi dôi ra được dùng để thay thế nguồn vốn đã cạn kiệt, cản trở sự tích lũy tư bản.[15] Nhiên liệu, đất đai, lương thực và các nguồn tài nguyên khác là cần thiết để duy trì tăng trưởng và tích lũy tư bản, cuối cùng dẫn đến chủ nghĩa thực dân.[16] Cách mạng Công nghiệp đã khắc phục được những hạn chế này, cho phép thu nhập bình quân đầu người tăng trưởng nhanh và bền vững lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại.

Tây Âu

Sau khi những cuộc xâm lược của người Viking, người Hồingười Magyar (Hungary) lắng xuống vào thế kỷ thứ 10, châu Âu bước vào thời kỳ thịnh vượng, dân số tăng nhanh và buôn bán giao thương được hồi sinh gọi là Trung kỳ Trung Cổ. Vào thế kỷ 13, các vùng đất tốt hầu hết đã được định cư và thu nhập từ nông nghiệp bắt đầu giảm còn thương mại tiếp tục được mở rộng, đặc biệt là ở Venice và nhiều thành bang phía bắc nước Ý. Châu Âu trải qua nhiều đợt thảm họa vào thế kỷ 14: nạn đói, chiến tranh, Cái chết đen và bệnh dịch hoành hành dẫn đến sự suy giảm dân số, khiến cho thuế khoán giảm và tiền công tăng, làm suy yếu các mối quan hệ phong kiến ​​và thái ấp vốn là các đặc trưng của châu Âu thời Trung cổ.[17]

Theo một nghiên cứu năm 2014, "có ít 'sự tiểu phân tầng' ở châu Âu trong khoảng thời gian từ năm 1300 đến năm 1800: mức tiền công thực tế ở khu vực Biển Bắc ổn định ít nhiều ở mức đạt được sau Cái chết Đen, và vẫn tương đối cao (trên mức đủ sống) trong suốt đầu thời kỳ cận đại (và vào thế kỷ 19), trong khi tiền công thực tế ở 'vùng ngoại vi' (Đức, Ý và Tây Ban Nha) bắt đầu suy giảm sau thế kỷ 15 và trở về mức sinh hoạt tối thiểu trong giai đoạn 1500–1800. 'Sự tiểu phân tầng' này trong tiền công thực tế phản ánh sự phân tầng tương tự về GDP bình quân đầu người: ở 'vùng ngoại vi' của Châu Âu hầu như không có tăng trưởng bình quân đầu người (hoặc thậm chí là giảm sút) trong khoảng từ 1500 đến 1800, còn ở Hà Lan và Anh thì thu nhập thực tế tiếp tục tăng và chắc hẳn đã gấp đôi trong thời kỳ này."[18]

Trong thời đại Khám phá, các nhà hàng hải đã khám phá ra các hải tuyến mới đến Châu Mỹ và Châu Á. Thương mại mở rộng cùng với những sáng kiến mới như công ty cổ phần và các thể loại tổ chức tài chính. Các công nghệ quân sự mới dẫn đến sự tập trung quyền lực vào tay các nhà nước có tài chính phụ thuộc vào thương mại. Pháp và Tây Ban Nha phát triển nền quân chủ tuyệt đối dựa trên nguồn thuế khoán cao và các chế độ độc quyền do nhà nước ban hành, dẫn đến sự suy giảm kinh tế. Cộng hòa Hà Lan bị chi phối bởi hầu hết là thương gia và nước Anh bị chi phối bởi phe nghị viện sau một cuộc đấu tranh lâu dài mà đỉnh cao là Cách mạng Vinh quang, góp phần tạo dựng lợi thế kinh tế ở các nước này.[19] Vào cuối thế kỷ 16, London và Antwerp phát triển hơn hẳn các thành phố châu Âu khác, được minh họa ở biểu đồ dưới về tiền công thực tế ở một số thành phố châu Âu:[20]

Trung Quốc

So sánh dân số (hàng triệu, mũ log) của Trung Quốc và châu Âu Lục địa giữa năm 1000 và 1975.[21]

Thời nhà Tống (960–1279), Trung Quốc đã cách mạng hóa nền nông nghiệp, giao thông đường thủy, tài chính, đô thị hóa, khoa học và công nghệ, đưa nền kinh tế Trung Quốc trở thành nền kinh tế tiên tiến nhất thế giới từ khoảng năm 1100.[22][23] Các tiến bộ trong nền canh tác lúa nước đã mở ra nền kinh tế miền nam bấy lâu nay kém phát triển. Miền bắc Trung Quốc sau này thường bị tàn phá bởi các cuộc xâm lược của Nữ Chân và Mông Cổ, hứng chịu nhiều thiên tai lũ lụt và dịch bệnh. Điều này làm dịch chuyển trung tâm dân số và thủ công nghiệp quanh sông Hoàng Hà xuống phía nam của đất nước, một xu hướng chỉ bị đảo ngược một phần bởi sự tái định cư dân số miền bắc vào thế kỷ 15.[24] Đến năm 1300, Trung Quốc tựu chung đã tụt hậu so với Ý về mức sống và đến năm 1400 thì Anh đã bắt kịp; tuy vậy các khu vực giàu có nhất của Trung Quốc, đặc biệt là đồng bằng sông Dương Tử, có lẽ vẫn ngang bằng với châu Âu cho đến đầu thế kỷ 18.[23][25]

Từ năm 1368–1911, dưới đời nhà Minhnhà Thanh, thuế khoán rất thấp, nền kinh tế và dân số tăng trưởng đáng kể, mặc dù không có sự gia tăng nào về năng suất.[41] Các mặt hàng của Trung Quốc như lụa, trà và gốm sứ có nhu cầu lớn ở châu Âu khiến bạc của người Âu tuôn trào vào Trung Quốc, mở rộng cung ứng tiền tệ và tạo điều kiện cho sự phát triển thị trường cạnh tranh và ổn định.[42] Vào cuối thế kỷ 18, mật độ dân số Trung Quốc vượt qua châu Âu. [43] Trung Quốc có nhiều đại đô thi nhưng ít thị trấn nhỏ hơn so với châu Âu đương thời.[44][45]

Ấn Độ

Đóng góp cho GDP toàn cầu của thế giới (PPP) theo vùng từ năm 1 đến năm 2003 theo ước tính của nhà kinh tế học Angus Maddison.[26] Cho tới thế kỷ 18, Trung Quốc và Ấn Độ là hai vùng cực kỳ năng suất.

Theo một nghiên cứu và tập dữ liệu năm 2020, cuộc Đại phân kỳ giữa miền bắc Ấn Độ (từ Gujarat đến Bengal) và Anh quốc bắt đầu vào cuối thế kỷ 17. Nó lan rộng sau những năm 1720 và bùng nổ sau những năm 1800.[27] Nghiên cứu phát hiện ra rằng chính "sự bứt phá của Anh quốc và sự trì trệ của Ấn Độ trong nửa đầu thế kỷ 19 đã dẫn đến sự khác biệt rất rõ ràng trong mức sống."[27]

Đến những năm 1500, Vương quốc Hồi giáo Bengal tại Ấn Độ là một cường quốc thương mại trên thế giới,[28] hưởng lợi từ cả nội thương lẫn ngoại thương. Nền nông nghiệp cũng như thủ công nghiệp của họ có năng suất rất cao. Không giống như Trung Quốc, Nhật Bản và Tây-Trung Âu, các khu rừng Ấn Độ không được khai thác cho đến thế kỷ 19 và 20. Họ không có cớ gì để phải chuyển sang sử dụng than đá vì gỗ củi vẫn còn dư thừa.[29] Từ thế kỷ 17, hàng dệt bông từ Đế quốc Mughal Ấn Độ rất được ưa chuộng ở châu Âu, khiến một số chính phủ phải ban lệnh cấm hàng Ấn để bảo vệ ngành công nghiệp len nước nhà.[30] Subah Bengal là khu vực phát triển nhất của Mughal Ấn Độ, trứ danh với ngành dệt may và đóng tàu.[31]

Châu Âu lúc bấy giờ rất thèm khát hàng hóa từ Mughal Ấn Độ như là hàng dệt bông, gia vị, ớt, chàm, lụa và diêm tiêu (để sử dụng trong bom, đạn).[32] Thời trang châu Âu ngày càng phụ thuộc vào hàng dệt và lụa của Ấn Độ. Trong thế kỷ 17 và 18, hàng Ấn Độ chiếm lĩnh 95% số hàng nhập khẩu từ châu Á của Anh, và riêng hàng từ Bengal Subah chiếm 40% số hàng nhập khẩu từ châu Á của Hà Lan.[33] Amiya Kumar Bagchi ước tính 10,3% dân số Bihar làm nghề kéo sợi thủ công, 2,3% làm nghề dệt và 9% làm trong các ngành sản xuất khác từ năm 1809–1813 để đáp ứng nhu cầu từ châu Âu.[34][35] Ngược lại, hàng hóa châu Âu lại không quá đặc sắc đối với thị trường Ấn Độ, vốn đã tự cung tự cấp từ lâu và do đó, người châu Âu xuất khẩu được rất ít hàng hóa sang Ấn Độ, ngoại trừ một số mặt hàng dệt len, kim loại thô và một số xa xỉ phẩm. Sự mất cân bằng thương mại khiến người châu Âu phải xuất một lượng lớn vàng và bạc sang Ấn Độ để chi trả cho số hàng nhập về.[32]

Tham khảo

  1. ^ Maddison 2007, tr. 382, Table A.7.
  2. ^ Eltjo, Buringh; van Zanden, Jan Luiten (2009). “Charting the "Rise of the West": Manuscripts and Printed Books in Europe, A Long-Term Perspective from the Sixth through Eighteenth Centuries”. The Journal of Economic History. 69 (2): 409–445, 416–417, tables 1 & 2. doi:10.1017/S0022050709000837. S2CID 154362112.
  3. ^ Allen, Robert C. (2011). Global Economic History: A Very Short Introduction. Oxford University Press Canada. ISBN 978-0-19-959665-2. Why has the world become increasingly unequal? Both 'fundamentals' like geography, institutions, or culture and 'accidents of history' played a role.
  4. ^ pseudoerasmus (12 tháng 6 năm 2014). “The Little Divergence”. pseudoerasmus. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2017.
  5. ^ “Business History, the Great Divergence and the Great Convergence”. HBS Working Knowledge (bằng tiếng Anh). 1 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2017.
  6. ^ Vries, Peer. “Escaping Poverty”.
  7. ^ Bassino, Jean-Pascal; Broadberry, Stephen; Fukao, Kyoji; Gupta, Bishnupriya; Takashima, Masanori (1 tháng 12 năm 2018). “Japan and the great divergence, 730–1874” (PDF). Explorations in Economic History (bằng tiếng Anh). 72: 1–22. doi:10.1016/j.eeh.2018.11.005. hdl:10086/29758. ISSN 0014-4983. S2CID 134669975.
  8. ^ Pomeranz 2000, tr. 36, 219–225.
  9. ^ Hobson 2004, tr. 77.
  10. ^ Bairoch 1995, tr. 101–108.
  11. ^ Goldstone, Jack A. (26 tháng 4 năm 2015). “The Great and Little Divergence: Where Lies the True Onset of Modern Economic Growth?”. Rochester, NY. SSRN 2599287. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  12. ^ Korotayev, Andrey; Zinkina, Julia; Goldstone, Jack (tháng 6 năm 2015). “Phases of global demographic transition correlate with phases of the Great Divergence and Great Convergence”. Technological Forecasting and Social Change. 95: 163–169. doi:10.1016/j.techfore.2015.01.017.
  13. ^ “The 6 killer apps of prosperity”. Ted.com. 11 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2017.
  14. ^ Pomeranz 2000, tr. 219.
  15. ^ Pomeranz 2000, tr. 187.
  16. ^ Pomeranz 2000, tr. 241.
  17. ^ North & Thomas 1973, tr. 11–13.
  18. ^ Bolt, Jutta; van Zanden, Jan Luiten (1 tháng 8 năm 2014). “The Maddison Project: collaborative research on historical national accounts”. The Economic History Review (bằng tiếng Anh). 67 (3): 627–651. doi:10.1111/1468-0289.12032. ISSN 1468-0289. S2CID 154189498.
  19. ^ North & Thomas 1973, tr. 16–18.
  20. ^ Allen 2001.
  21. ^ Feuerwerker 1990, tr. 227.
  22. ^ Elvin 1973, tr. 7, 113–199.
  23. ^ a b Broadberry, Stephen N.; Guan, Hanhui; Li, David D. (1 tháng 4 năm 2017). “China, Europe and the Great Divergence: A Study in Historical National Accounting, 980–1850”. SSRN 2957511. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  24. ^ Elvin 1973, tr. 204–205.
  25. ^ “China has been poorer than Europe longer than the party thinks”. The Economist. 15 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2017.
  26. ^ Bảng số liệu trong Maddison A (2007), Contours of the World Economy I–2030 AD, NXB Đại học Oxford, ISBN 978-0-19-922720-4
  27. ^ a b Zwart, Pim de; Lucassen, Jan (2020). “Poverty or prosperity in northern India? New evidence on real wages, 1590s–1870s†”. The Economic History Review (bằng tiếng Anh). 73 (3): 644–667. doi:10.1111/ehr.12996. ISSN 1468-0289.
  28. ^ Nanda, J.N. (2005). Bengal: the unique state. Concept Publishing Company. p. 10. ISBN 978-81-8069-149-2. Bengal [...] was rich in the production and export of grain, salt, fruit, liquors and wines, precious metals and ornaments besides the output of its handlooms in silk and cotton. Europe referred to Bengal as the richest country to trade with.
  29. ^ Parthasarathi 2011, tr. 180–182.
  30. ^ Parthasarathi 2011, tr. 59, 128, 138.
  31. ^ Ray, Indrajit (2011). Bengal Industries and the British Industrial Revolution (1757–1857). Routledge. tr. 57, 90, 174. ISBN 978-1-136-82552-1.
  32. ^ a b Schmidt, Karl J. (2015). An Atlas and Survey of South Asian History. Routledge. tr. 100. ISBN 9781317476818.
  33. ^ Prakash, Om (2006). “Empire, Mughal”. History of World Trade Since 1450. Gale. tr. 237–240. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2017.
  34. ^ Williamson, Jeffrey G.; Clingingsmith, David (tháng 8 năm 2005). “India's Deindustrialization in the 18th and 19th Centuries” (PDF). Harvard University. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2017.
  35. ^ Bagchi, Amiya (1976). Deindustrialization in Gangetic Bihar 1809–1901. New Delhi: People's Publishing House.