Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tăng áp lực nội sọ vô căn”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Tạo với bản dịch của trang “Idiopathic intracranial hypertension
Dòng 1: Dòng 1:
'''Tăng áp lực nội sọ vô căn''' trước đây được gọi là '''giả u não''' hay '''tăng áp lực nội sọ lành tính''' là một tình trạng tăng [[áp lực nội sọ]] (áp lực xung quanh não) mà không tìm thấy được nguyên nhân. <ref name="NEI2014">{{Chú thích web|url=https://nei.nih.gov/health/iih/intracranial|tựa đề=Idiopathic Intracranial Hypertension|ngày=April 2014|website=National Eye Institute|ngôn ngữ=en|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20190708215836/https://www.nei.nih.gov/health/iih/intracranial|ngày lưu trữ=8 July 2019|url-status=dead|ngày truy cập=8 November 2017}}</ref> Các triệu chứng chính là [[đau đầu]], vấn đề về thị lực, [[ù tai]] và đau vai,<ref name="Wal2017">{{Chú thích tập san học thuật |last=Wall |first=M |date=February 2017 |title=Update on Idiopathic Intracranial Hypertension. |journal=Neurologic Clinics |volume=35 |issue=1 |pages=45–57 |doi=10.1016/j.ncl.2016.08.004 |pmc=5125521 |pmid=27886895}}</ref> có thể gây biến chứng [[Suy giảm thị lực|mù]]. <ref name="NEI2014" />
{{Đang sửa đổi}}'''Tăng áp lực nội sọ vô căn''' (viết tắt: '''TALNS vô căn'''), trước đây được gọi là '''giả u não''' hay '''tăng áp lực nội sọ lành tính''' là một tình trạng tăng [[áp lực nội sọ]] (áp lực xung quanh não) mà không tìm thấy được nguyên nhân. <ref name="NEI2014">{{Chú thích web|url=https://nei.nih.gov/health/iih/intracranial|tựa đề=Idiopathic Intracranial Hypertension|ngày=April 2014|website=National Eye Institute|ngôn ngữ=en|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20190708215836/https://www.nei.nih.gov/health/iih/intracranial|ngày lưu trữ=8 July 2019|url-status=dead|ngày truy cập=8 November 2017}}</ref> Các triệu chứng chính là [[đau đầu]], vấn đề về thị lực, [[ù tai]] và đau vai,<ref name="Wal2017">{{Chú thích tập san học thuật |last=Wall |first=M |date=February 2017 |title=Update on Idiopathic Intracranial Hypertension. |journal=Neurologic Clinics |volume=35 |issue=1 |pages=45–57 |doi=10.1016/j.ncl.2016.08.004 |pmc=5125521 |pmid=27886895}}</ref> có thể gây biến chứng [[Suy giảm thị lực|mù]]. <ref name="NEI2014" />


Vô căn có nghĩa là không tìm thấy nguyên nhân. Tuy vậy, thừa cân hoặc tăng cân nhanh trong thời gian ngắn,<ref name="Wal2017">{{Chú thích tập san học thuật |last=Wall |first=M |date=February 2017 |title=Update on Idiopathic Intracranial Hypertension. |journal=Neurologic Clinics |volume=35 |issue=1 |pages=45–57 |doi=10.1016/j.ncl.2016.08.004 |pmc=5125521 |pmid=27886895}}<cite class="citation journal cs1" data-ve-ignore="true" id="CITEREFWall2017">Wall, M (February 2017). [https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC5125521 "Update on Idiopathic Intracranial Hypertension"]. ''Neurologic Clinics''. '''35''' (1): 45–57. [[DOI|doi]]:[[doi:10.1016/j.ncl.2016.08.004|10.1016/j.ncl.2016.08.004]]. [[PubMed Central|PMC]]&nbsp;<span class="cs1-lock-free" title="Freely accessible">[https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC5125521 5125521]</span>. [[PubMed|PMID]]&nbsp;[https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/27886895 27886895].</cite></ref> sử dụng [[tetracycline]] là những yếu tố nguy cơ gây tăng áp lực nội sọ vô căn. <ref name="NEI2014">{{Chú thích web|url=https://nei.nih.gov/health/iih/intracranial|tựa đề=Idiopathic Intracranial Hypertension|ngày=April 2014|website=National Eye Institute|ngôn ngữ=en|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20190708215836/https://www.nei.nih.gov/health/iih/intracranial|ngày lưu trữ=8 July 2019|url-status=dead|ngày truy cập=8 November 2017}}<cite class="citation web cs1" data-ve-ignore="true">[https://web.archive.org/web/20190708215836/https://www.nei.nih.gov/health/iih/intracranial "Idiopathic Intracranial Hypertension"]. ''National Eye Institute''. April 2014. Archived from [https://nei.nih.gov/health/iih/intracranial the original] on 8 July 2019<span class="reference-accessdate">. Retrieved <span class="nowrap">8 November</span> 2017</span>.</cite></ref> Chẩn đoán dựa vào triệu chứng lâm sàng,[[Chọc dò thắt lưng|chọc dịch não tủy]] thấy áp lực cao và không thấy nguyên nhân cụ thể thể hiện trên chẩn đoán hình ảnh. <ref name="Wal2017" /> <ref name="NEI2014" />
Vô căn có nghĩa là không tìm thấy nguyên nhân. Tuy vậy, thừa cân hoặc tăng cân nhanh trong thời gian ngắn,<ref name="Wal2017">{{Chú thích tập san học thuật |last=Wall |first=M |date=February 2017 |title=Update on Idiopathic Intracranial Hypertension. |journal=Neurologic Clinics |volume=35 |issue=1 |pages=45–57 |doi=10.1016/j.ncl.2016.08.004 |pmc=5125521 |pmid=27886895}}</ref> sử dụng [[tetracycline]] là những yếu tố nguy cơ gây tăng áp lực nội sọ vô căn. <ref name="NEI2014">{{Chú thích web|url=https://nei.nih.gov/health/iih/intracranial|tựa đề=Idiopathic Intracranial Hypertension|ngày=April 2014|website=National Eye Institute|ngôn ngữ=en|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20190708215836/https://www.nei.nih.gov/health/iih/intracranial|ngày lưu trữ=8 July 2019|url-status=dead|ngày truy cập=8 November 2017}}</ref> Chẩn đoán dựa vào triệu chứng lâm sàng,[[Chọc dò thắt lưng|chọc dịch não tủy]] thấy áp lực cao và không thấy nguyên nhân cụ thể thể hiện trên chẩn đoán hình ảnh. <ref name="Wal2017" /> <ref name="NEI2014" />


Để điều trị, cần có một chế độ ăn uống lành mạnh, hạn chế muối và tích cực tập thể dục. <ref name="NEI2014">{{Chú thích web|url=https://nei.nih.gov/health/iih/intracranial|tựa đề=Idiopathic Intracranial Hypertension|ngày=April 2014|website=National Eye Institute|ngôn ngữ=en|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20190708215836/https://www.nei.nih.gov/health/iih/intracranial|ngày lưu trữ=8 July 2019|url-status=dead|ngày truy cập=8 November 2017}}<cite class="citation web cs1" data-ve-ignore="true">[https://web.archive.org/web/20190708215836/https://www.nei.nih.gov/health/iih/intracranial "Idiopathic Intracranial Hypertension"]. ''National Eye Institute''. April 2014. Archived from [https://nei.nih.gov/health/iih/intracranial the original] on 8 July 2019<span class="reference-accessdate">. Retrieved <span class="nowrap">8 November</span> 2017</span>.</cite></ref> Có thể sử dụng kèm thuốc [[acetazolamide]]. <ref name="NEI2014" /> Một tỷ lệ nhỏ bệnh nhân cần phẫu thuật giải áp. <ref name="NEI2014" />
Để điều trị, cần có một chế độ ăn uống lành mạnh, hạn chế muối và tích cực tập thể dục. <ref name="NEI2014">{{Chú thích web|url=https://nei.nih.gov/health/iih/intracranial|tựa đề=Idiopathic Intracranial Hypertension|ngày=April 2014|website=National Eye Institute|ngôn ngữ=en|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20190708215836/https://www.nei.nih.gov/health/iih/intracranial|ngày lưu trữ=8 July 2019|url-status=dead|ngày truy cập=8 November 2017}}</ref> Có thể sử dụng kèm thuốc [[acetazolamide]]. <ref name="NEI2014" /> Một tỷ lệ nhỏ bệnh nhân cần phẫu thuật giải áp. <ref name="NEI2014" />


Mỗi năm có khoảng 2 trên 100.000 người mắc mới. <ref name="Wak2015">{{Chú thích tập san học thuật |last=Wakerley |first=BR |last2=Tan |first2=MH |last3=Ting |first3=EY |date=March 2015 |title=Idiopathic intracranial hypertension. |journal=Cephalalgia: An International Journal of Headache |volume=35 |issue=3 |pages=248–61 |doi=10.1177/0333102414534329 |pmid=24847166}}</ref> Tình trạng này thường ảnh hưởng nhất đến phụ nữ ở độ tuổi 20–50. <ref name="NEI2014">{{Chú thích web|url=https://nei.nih.gov/health/iih/intracranial|tựa đề=Idiopathic Intracranial Hypertension|ngày=April 2014|website=National Eye Institute|ngôn ngữ=en|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20190708215836/https://www.nei.nih.gov/health/iih/intracranial|ngày lưu trữ=8 July 2019|url-status=dead|ngày truy cập=8 November 2017}}<cite class="citation web cs1" data-ve-ignore="true">[https://web.archive.org/web/20190708215836/https://www.nei.nih.gov/health/iih/intracranial "Idiopathic Intracranial Hypertension"]. ''National Eye Institute''. April 2014. Archived from [https://nei.nih.gov/health/iih/intracranial the original] on 8 July 2019<span class="reference-accessdate">. Retrieved <span class="nowrap">8 November</span> 2017</span>.</cite></ref> Phụ nữ bị nhiều hơn nam giới khoảng 20 lần. <ref name="NEI2014" /> Tăng áp lực nội sọ vô căn được mô tả lần đầu tiên vào năm 1897. <ref name="Wal2017">{{Chú thích tập san học thuật |last=Wall |first=M |date=February 2017 |title=Update on Idiopathic Intracranial Hypertension. |journal=Neurologic Clinics |volume=35 |issue=1 |pages=45–57 |doi=10.1016/j.ncl.2016.08.004 |pmc=5125521 |pmid=27886895}}<cite class="citation journal cs1" data-ve-ignore="true" id="CITEREFWall2017">Wall, M (February 2017). [https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC5125521 "Update on Idiopathic Intracranial Hypertension"]. ''Neurologic Clinics''. '''35''' (1): 45–57. [[DOI|doi]]:[[doi:10.1016/j.ncl.2016.08.004|10.1016/j.ncl.2016.08.004]]. [[PubMed Central|PMC]]&nbsp;<span class="cs1-lock-free" title="Freely accessible">[https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC5125521 5125521]</span>. [[PubMed|PMID]]&nbsp;[https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/27886895 27886895].</cite></ref>
Mỗi năm có khoảng 2 trên 100.000 người mắc mới. <ref name="Wak2015">{{Chú thích tập san học thuật |last=Wakerley |first=BR |last2=Tan |first2=MH |last3=Ting |first3=EY |date=March 2015 |title=Idiopathic intracranial hypertension. |journal=Cephalalgia: An International Journal of Headache |volume=35 |issue=3 |pages=248–61 |doi=10.1177/0333102414534329 |pmid=24847166}}</ref> Tình trạng này thường ảnh hưởng nhất đến phụ nữ ở độ tuổi 20–50. <ref name="NEI2014">{{Chú thích web|url=https://nei.nih.gov/health/iih/intracranial|tựa đề=Idiopathic Intracranial Hypertension|ngày=April 2014|website=National Eye Institute|ngôn ngữ=en|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20190708215836/https://www.nei.nih.gov/health/iih/intracranial|ngày lưu trữ=8 July 2019|url-status=dead|ngày truy cập=8 November 2017}}</ref> Phụ nữ bị nhiều hơn nam giới khoảng 20 lần. <ref name="NEI2014" /> Tăng áp lực nội sọ vô căn được mô tả lần đầu tiên vào năm 1897. <ref name="Wal2017">{{Chú thích tập san học thuật |last=Wall |first=M |date=February 2017 |title=Update on Idiopathic Intracranial Hypertension. |journal=Neurologic Clinics |volume=35 |issue=1 |pages=45–57 |doi=10.1016/j.ncl.2016.08.004 |pmc=5125521 |pmid=27886895}}</ref>


== Triệu chứng cơ năng và triệu chứng thực thể ==
== Triệu chứng cơ năng và triệu chứng thực thể ==
Triệu chứng phổ biến nhất của TALNS vô căn là nhức đầu dữ dội, xảy ra ở hầu hết (92–94%) trường hợp. Đau đầu tăng lên vào buổi sáng, đau toàn bộ vùng đầu và đau nhói. Đau đầu có thể kèm với buồn nôn và nôn. Cơn đau đầu có thể nặng hơn nếu có những hành động làm tăng áp lực nội sọ, chẳng hạn như [[ho]], [[hắt hơi]] hoặc làm [[nghiệm pháp Valsava]]. Cơn đau có thể lan xuống cổ và vai. <ref name="Binder">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Binder DK, Horton JC, Lawton MT, McDermott MW |date=March 2004 |title=Idiopathic intracranial hypertension |journal=Neurosurgery |volume=54 |issue=3 |pages=538–51; discussion 551–2 |doi=10.1227/01.NEU.0000109042.87246.3C |pmid=15028127}}</ref> Nhiều người bị [[Ù tai|ù tai theo mạch đập]], ù tai ở một hoặc cả hai tai (64–87%). <ref name="Binder" /> <ref>{{Chú thích tập san học thuật |last=Sismanis A |date=July 1998 |title=Pulsatile tinnitus. A 15-year experience |journal=American Journal of Otology |volume=19 |issue=4 |pages=472–7 |pmid=9661757}}</ref> Nhiều triệu chứng khác, chẳng hạn như dị cảm tứ chi, yếu liệt toàn thân, đau và/hoặc dị cảm ở một hoặc cả hai bên mặt, mất khứu giác và hiếm gặp hơn là [[thất điều]] (mất điều hòa vận động); các triệu chứng trên không đặc hiệu cho TALNS vô căn. <ref name="Binder" /> Trẻ em có nhiều triệu chứng không đặc hiệu. <ref name="Soler">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Soler D, Cox T, Bullock P, Calver DM, Robinson RO |date=January 1998 |title=Diagnosis and management of benign intracranial hypertension |url= |journal=Archives of Disease in Childhood |volume=78 |issue=1 |pages=89–94 |doi=10.1136/adc.78.1.89 |pmc=1717437 |pmid=9534686}}</ref>


Áp lực gia tăng dẫn đến chèn ép hoặc đứt [[dây thần kinh sọ]]<nowiki/>cho phối cho mặt và cổ, hay gặp nhất là dây [[thần kinh giạng]] (thần kinh 6). Dây thần kinh này cung cấp cho [[cơ thẳng ngoài]] (khi co thì kéo nhãn cầu ra ngoài). Do đó, những người bị [[liệt thần kinh giạng]] bị nhìn đôi theo chiều ngang, nhìn đôi tệ hơn khi nhìn về phía bị liệt. Hiếm khi hơn, [[thần kinh vận nhãn]] (thần kinh 3) và [[thần kinh ròng rọc]] (thần kinh 4) bị ảnh hưởng; cả hai đều đóng một vai trò trong chuyển động của mắt. <ref name="Soler">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Soler D, Cox T, Bullock P, Calver DM, Robinson RO |date=January 1998 |title=Diagnosis and management of benign intracranial hypertension |url= |journal=Archives of Disease in Childhood |volume=78 |issue=1 |pages=89–94 |doi=10.1136/adc.78.1.89 |pmc=1717437 |pmid=9534686}}</ref> <ref name="FriedmanJacobson2002">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Friedman DI, Jacobson DM |year=2002 |title=Diagnostic criteria for idiopathic intracranial hypertension |journal=Neurology |volume=59 |issue=10 |pages=1492–1495 |doi=10.1212/01.wnl.0000029570.69134.1b |pmid=12455560}}</ref> Đôi khi [[thần kinh mặt]] (dây thần kinh sọ thứ bảy) bị ảnh hưởng – kết quả là [[Méo miệng|các cơ biểu cảm nét mặt ở một hoặc cả hai bên mặt]] bị liệt hoàn toàn hoặc một phần. <ref name="Binder">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Binder DK, Horton JC, Lawton MT, McDermott MW |date=March 2004 |title=Idiopathic intracranial hypertension |journal=Neurosurgery |volume=54 |issue=3 |pages=538–51; discussion 551–2 |doi=10.1227/01.NEU.0000109042.87246.3C |pmid=15028127}}</ref>

Áp lực gia tăng dẫn đến [[phù gai thị]], tức là phù [[đĩa thị giác]], nơi [[thần kinh thị giác]] đi vào [[Mắt người|nhãn cầu]] . Điều này thực tế xảy ra trong tất cả các trường hợp TALNS vô căn, nhưng không phải ai cũng gặp phải các triệu chứng này. Những người gặp phải các triệu chứng thường báo cáo về "sự che khuất thị giác thoáng qua", các giai đoạn khó nhìn xảy ra ở cả hai mắt nhưng không nhất thiết phải đồng thời. Phù gai thị không được điều trị trong thời gian dài dẫn đến mất thị lực, ban đầu ở vùng ngoại vi nhưng dần dần về trung tâm thị lực. <ref name="Binder">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Binder DK, Horton JC, Lawton MT, McDermott MW |date=March 2004 |title=Idiopathic intracranial hypertension |journal=Neurosurgery |volume=54 |issue=3 |pages=538–51; discussion 551–2 |doi=10.1227/01.NEU.0000109042.87246.3C |pmid=15028127}}</ref> <ref name="Acheson">{{Chú thích tập san học thuật |last=Acheson JF |year=2006 |title=Idiopathic intracranial hypertension and visual function |journal=British Medical Bulletin |volume=79–80 |issue=1 |pages=233–44 |citeseerx=10.1.1.131.9802 |doi=10.1093/bmb/ldl019 |pmid=17242038}}</ref>

Khám thần kinh thường cho kết quả bình thường. Khám mắt bằng một thiết bị nhỏ gọi là kính [[soi đáy mắt]] hoặc chi tiết hơn với [[chụp ảnh màu đáy mắt]] (''fundus color photography'') cho hình ảnh phù gai thị. Nếu có bất thường thần kinh sọ, chúng có thể được nhận thấy khi [[khám mắt]] dưới dạng [[Mắt lác|lác]] mắt (liệt dây thần kinh thứ ba, thứ tư hoặc thứ sáu) hoặc liệt dây thần kinh mặt. Nếu phù gai thị đã có từ lâu dẫn đến hạn chế [[Trường thị giác|thị trường]] và giảm [[thị lực]]. [[Khám thị trường]] bằng chu vi kế (Humphrey) được khuyến nghị vì các phương thức khám thị trường khác kém chính xác hơn. Phù gai thị kéo dài dẫn đến [[teo thị giác]], đặc trưng bởi hình ảnh đĩa thị nhợt nhạt và có giảm thị lực tiến triển. <ref name="Binder">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Binder DK, Horton JC, Lawton MT, McDermott MW |date=March 2004 |title=Idiopathic intracranial hypertension |journal=Neurosurgery |volume=54 |issue=3 |pages=538–51; discussion 551–2 |doi=10.1227/01.NEU.0000109042.87246.3C |pmid=15028127}}</ref> <ref name="Acheson">{{Chú thích tập san học thuật |last=Acheson JF |year=2006 |title=Idiopathic intracranial hypertension and visual function |journal=British Medical Bulletin |volume=79–80 |issue=1 |pages=233–44 |citeseerx=10.1.1.131.9802 |doi=10.1093/bmb/ldl019 |pmid=17242038}}</ref>

== Nguyên nhân ==
"Vô căn" có nghĩa là không rõ nguyên nhân. Do đó, TALNS vô căn chỉ có thể được chẩn đoán nếu không có lời giải thích thay thế nào cho các triệu chứng. [[Áp lực nội sọ]] có thể tăng lên do các loại thuốc như dẫn xuất [[vitamin A]] liều cao (ví dụ [[isotretinoin]] trị [[mụn trứng cá]] ), [[Thuốc kháng sinh tetracycline|kháng sinh tetracyclin]] điều trị dài ngày (đối với nhiều tình trạng da) và [[thuốc tránh thai nội tiết]] .

Có nhiều bệnh gây tăng áp lực nội sọ (hầu hết là các bệnh hiếm gặp). Nếu tăng áp lực nội sọ có nguyên nhân gây ra thì được gọi là "tăng áp lực nội sọ thứ phát". <ref name="Binder">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Binder DK, Horton JC, Lawton MT, McDermott MW |date=March 2004 |title=Idiopathic intracranial hypertension |journal=Neurosurgery |volume=54 |issue=3 |pages=538–51; discussion 551–2 |doi=10.1227/01.NEU.0000109042.87246.3C |pmid=15028127}}</ref> Các nguyên nhân phổ biến của tăng áp lực nội sọ thứ phát bao gồm [[ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn]] (rối loạn hô hấp liên quan đến giấc ngủ), [[lupus ban đỏ hệ thống]] (SLE), [[bệnh thận mạn tính]] và [[bệnh Behçet]] . <ref name="Acheson">{{Chú thích tập san học thuật |last=Acheson JF |year=2006 |title=Idiopathic intracranial hypertension and visual function |journal=British Medical Bulletin |volume=79–80 |issue=1 |pages=233–44 |citeseerx=10.1.1.131.9802 |doi=10.1093/bmb/ldl019 |pmid=17242038}}</ref>

== Cơ chế ==
Nguyên nhân của TALNS vô căn chưa rõ. [[Áp lực nội sọ|Quy tắc Monro–Kellie]] phát biểu rằng áp lực nội sọ được xác định bởi nhu mô não, [[dịch não tủy]] (CSF) và máu bên trong xương sọ. Do đó, có ba lý thuyết giải thích tại sao áp suất có thể tăng lên trong TALNS vô căn: do tiết quá nhiều dịch não tủy, do tăng thể tích máu/nhu mô não hoặc do tắc nghẽn các tĩnh mạch dẫn máu ra khỏi não . <ref name="Binder">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Binder DK, Horton JC, Lawton MT, McDermott MW |date=March 2004 |title=Idiopathic intracranial hypertension |journal=Neurosurgery |volume=54 |issue=3 |pages=538–51; discussion 551–2 |doi=10.1227/01.NEU.0000109042.87246.3C |pmid=15028127}}</ref>

Giả thuyết đầu tiên là tăng tiết dịch não tủy. Tuy nhiên, không có dữ liệu thử nghiệm nào hỗ trợ vai trò của giả thuyết này trong TALNS vô căn. <ref name="Binder">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Binder DK, Horton JC, Lawton MT, McDermott MW |date=March 2004 |title=Idiopathic intracranial hypertension |journal=Neurosurgery |volume=54 |issue=3 |pages=538–51; discussion 551–2 |doi=10.1227/01.NEU.0000109042.87246.3C |pmid=15028127}}</ref>

Giả thuyết thứ hai cho rằng lưu lượng máu đến não hoặc thể tích nhu mô não tăng lên có thể dẫn đến TALNS. Ít bằng chứng ủng hộ cho cơ chế lưu lượng máu tăng. Tuy nhiên, trong các nghiên cứu chụp mạch máu cộng hưởng từ tương phản pha (''phase contrast'' ''Magnetic Resonance Angiography'') của Bateman ''và cộng sự'' đã định lượng lưu lượng máu não (CBF) ''[[in vivo]]'' và thấy rằng lưu lượng máu não tăng cao bất thường ở nhiều người mắc TALNS vô căn. Cả các mẫu [[sinh thiết]] và các phương pháp chẩn đoán hình ảnh não khác nhau đều cho thấy hàm lượng nước trong mô não tăng lên. Vẫn chưa rõ tại sao lại có hiện tượng này. <ref name="Binder">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Binder DK, Horton JC, Lawton MT, McDermott MW |date=March 2004 |title=Idiopathic intracranial hypertension |journal=Neurosurgery |volume=54 |issue=3 |pages=538–51; discussion 551–2 |doi=10.1227/01.NEU.0000109042.87246.3C |pmid=15028127}}</ref>

Giả thuyết thứ ba cho rằng việc đưa máu từ tĩnh mạch về tim bị hạn chế. Nhiều người bị TALNS vô căn bị hẹp các [[Xoang ngang|xoang tĩnh mạch ngang]] . <ref name="Farb">{{Chú thích tập san học thuật |last=Farb |first=RI |last2=Vanek |first2=I |last3=Scott |first3=JN |last4=Mikulis |first4=DJ |last5=Willinsky |first5=RA |last6=Tomlinson |first6=G |last7=terBrugge |first7=KG |date=May 13, 2003 |title=Idiopathic intracranial hypertension: the prevalence and morphology of sinovenous stenosis. |journal=Neurology |volume=60 |issue=9 |pages=1418–24 |doi=10.1212/01.wnl.0000066683.34093.e2 |pmid=12743224}}</ref> Không rõ sự chít hẹp này là cơ chế bệnh sinh của bệnh hay là hiện tượng thứ phát. Có đề xuất cho rằng tồn tại một feedback sinh học dương tính, trong đó [[áp lực nội sọ]] (ICP) tăng lên gây ra tình trạng hẹp tĩnh mạch trong các xoang ngang, dẫn đến tăng áp lực tĩnh mạch, làm [[hạt màng nhện]] giảm tái hấp thu dịch não tủy, hệ quả là làm tăng áp lực nội sọ. <ref name="Ahmed">{{Chú thích tập san học thuật |last=Ahmed |first=RM |last2=Wilkinson |first2=M |last3=Parker |first3=GD |last4=Thurtell |first4=MJ |last5=Macdonald |first5=J |last6=McCluskey |first6=PJ |last7=Allan |first7=R |last8=Dunne |first8=V |last9=Hanlon |first9=M |last10=Owler |first10=BK |last11=Halmagyi |first11=GM |date=Sep 2011 |title=Transverse sinus stenting for idiopathic intracranial hypertension: a review of 52 patients and of model predictions. |journal=AJNR. American Journal of Neuroradiology |volume=32 |issue=8 |pages=1408–14 |doi=10.3174/ajnr.a2575 |pmc=7964366 |pmid=21799038 |doi-access=free}}</ref>

== Chẩn đoán ==
[[Tập tin:UOTW_5_-_Ultrasound_of_the_Week_2_(cropped).jpg|nhỏ| Siêu âm thần kinh thị giác cho thấy hình ảnh của TALNS vô căn <ref name="UOTW5">{{Chú thích web|url=https://www.ultrasoundoftheweek.com/uotw-5/|tựa đề=UOTW #5 - Ultrasound of the Week|ngày=17 June 2014|website=Ultrasound of the Week|ngày truy cập=27 May 2017}}</ref>]]
Chẩn đoán dựa vào bệnh sử và khám lâm sàng. Để xác nhận chẩn đoán và loại trừ các nguyên nhân khác, cần phải làm một số xét nghiệm và chẩn đoán hình ảnh. Có thể phải xét nghiệm hay chẩn đoán hình ảnh kỹ càng hơn nếu biểu hiện bệnh không điển hình. <ref name="FriedmanJacobson2002">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Friedman DI, Jacobson DM |year=2002 |title=Diagnostic criteria for idiopathic intracranial hypertension |journal=Neurology |volume=59 |issue=10 |pages=1492–1495 |doi=10.1212/01.wnl.0000029570.69134.1b |pmid=12455560}}</ref>

=== Cận lâm sàng ===
[[Chụp cắt lớp vi tính]] (CT) hoặc [[chụp cộng hưởng từ]] (MRI), được sử dụng để loại trừ tổn thương dạng khối. Trong TALNS vô căn, chẩn đoán hình ảnh này thường cho kết quả bình thường. Có thể có hình ảnh [[não thất]] nhỏ hoặc hẹp, hình ảnh giãn não thất, hình ảnh biến dạng uốn (''buckling'') của bao dây thần kinh thị giác và "[[dấu hiệu tuyến yên rỗng]]" ([[tuyến yên]] "phẳng đi" do tăng áp lực) và [[ổ Meckel]] giãn rộng.<ref>{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Tan YJ, Choo C |year=2020 |title=Idiopathic Intracranial Hypertension – Characteristic MRI Features |journal=Headache |volume=60 |issue=9 |pages=267–8 |doi=10.1111/head.13931 |pmid=32757392}}</ref>

Chụp tĩnh mạch đồ cộng hưởng từ (''magnetic resonance venography'', viết tắt là MRV) được chỉ định trong hầu hết các trường hợp để loại trừ khả năng hẹp/tắc xoang tĩnh mạch hoặc [[huyết khối xoang tĩnh mạch não]] . <ref name="Binder">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Binder DK, Horton JC, Lawton MT, McDermott MW |date=March 2004 |title=Idiopathic intracranial hypertension |journal=Neurosurgery |volume=54 |issue=3 |pages=538–51; discussion 551–2 |doi=10.1227/01.NEU.0000109042.87246.3C |pmid=15028127}}</ref> <ref name="Soler">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Soler D, Cox T, Bullock P, Calver DM, Robinson RO |date=January 1998 |title=Diagnosis and management of benign intracranial hypertension |url= |journal=Archives of Disease in Childhood |volume=78 |issue=1 |pages=89–94 |doi=10.1136/adc.78.1.89 |pmc=1717437 |pmid=9534686}}</ref> <ref name="FriedmanJacobson2002">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Friedman DI, Jacobson DM |year=2002 |title=Diagnostic criteria for idiopathic intracranial hypertension |journal=Neurology |volume=59 |issue=10 |pages=1492–1495 |doi=10.1212/01.wnl.0000029570.69134.1b |pmid=12455560}}</ref> Chụp Chụp tĩnh mạch đồ cộng hưởng từ ATECO có cản quang (''auto-triggered elliptic centric-ordered magnetic resonance'', viết tắt là ATECO MRV) có tỷ lệ phát hiện cao các trường hợp hẹp xoang ngang bất thường. <ref name="Farb">{{Chú thích tập san học thuật |last=Farb |first=RI |last2=Vanek |first2=I |last3=Scott |first3=JN |last4=Mikulis |first4=DJ |last5=Willinsky |first5=RA |last6=Tomlinson |first6=G |last7=terBrugge |first7=KG |date=May 13, 2003 |title=Idiopathic intracranial hypertension: the prevalence and morphology of sinovenous stenosis. |journal=Neurology |volume=60 |issue=9 |pages=1418–24 |doi=10.1212/01.wnl.0000066683.34093.e2 |pmid=12743224}}</ref> Những chỗ hẹp này có thể được xác định và đánh giá đầy đủ hơn bằng chụp tĩnh mạch não và đo áp suất não qua catheter. <ref name="Ahmed">{{Chú thích tập san học thuật |last=Ahmed |first=RM |last2=Wilkinson |first2=M |last3=Parker |first3=GD |last4=Thurtell |first4=MJ |last5=Macdonald |first5=J |last6=McCluskey |first6=PJ |last7=Allan |first7=R |last8=Dunne |first8=V |last9=Hanlon |first9=M |last10=Owler |first10=BK |last11=Halmagyi |first11=GM |date=Sep 2011 |title=Transverse sinus stenting for idiopathic intracranial hypertension: a review of 52 patients and of model predictions. |journal=AJNR. American Journal of Neuroradiology |volume=32 |issue=8 |pages=1408–14 |doi=10.3174/ajnr.a2575 |pmc=7964366 |pmid=21799038 |doi-access=free}}</ref>

[[Chọc dò thắt lưng|Chọc dịch não tủy]] được chỉ định để đo áp lực mở, cũng như lấy [[dịch não tủy]] (DNT) để loại trừ các chẩn đoán phân biệt khác. Nếu áp lực mở tăng, có thể hút dịch nảo tủy để giảm áp lực tạm thời. <ref name="FriedmanJacobson2002">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Friedman DI, Jacobson DM |year=2002 |title=Diagnostic criteria for idiopathic intracranial hypertension |journal=Neurology |volume=59 |issue=10 |pages=1492–1495 |doi=10.1212/01.wnl.0000029570.69134.1b |pmid=12455560}}</ref> Tìm các tế bào bất thường, làm bilan nhiễm trùng, định lượng kháng thể, [[glucose]] và [[protein]] trong dịch não tủy để định hướng nguyên nhân . Theo định nghĩa, tất cả các chỉ số trên đều nằm trong giới hạn bình thường trong TALNS vô căn. <ref name="FriedmanJacobson2002" /> Đôi khi áp lực DNT vẫn bình thường mặc dù có nhiều triệu chứng rất gợi ý cho bệnh. Nguyên nhân là bởi áp lực DNT dao động trong ngày. Nếu vẫn nghi ngờ thì có thể cần phải thực hiện theo dõi áp lực nội sọ lâu dài hơn bằng catheter áp lực. <ref name="FriedmanJacobson2002" />

=== Phân loại ===
Năm 1937, [[Walter Dandy|Dandy]] liệt kê các tiêu chí chẩn đoán TALNS vô căn. <ref name="Dandy1937">{{Chú thích tập san học thuật |last=Dandy WE |date=October 1937 |title=Intracranial pressure without brain tumor - diagnosis and treatment |journal=Annals of Surgery |volume=106 |issue=4 |pages=492–513 |doi=10.1097/00000658-193710000-00002 |pmc=1390605 |pmid=17857053}}</ref>
{| align="center" border="1" style="text-align: center; background: #FFFFFF;"
|+Tiêu chí Dandy <ref name="Dandy1937">{{Chú thích tập san học thuật |last=Dandy WE |date=October 1937 |title=Intracranial pressure without brain tumor - diagnosis and treatment |journal=Annals of Surgery |volume=106 |issue=4 |pages=492–513 |doi=10.1097/00000658-193710000-00002 |pmc=1390605 |pmid=17857053}}</ref>
| 1 Các triệu chứng cơ năng và triệu chứng thực thể của tăng áp lực nội sọi và áp lực DNT >25 cmH<sub>2</sub>O
|- bgcolor="#EFEFEF"
| 2 Không có dấu hiệu thần kinh khu trú, ngoại trừ liệt thần kinh vận động
|- bgcolor="#EFEFEF"
| 3 Thành phần DNT bình thường
|- bgcolor="#EFEFEF"
| 4 Não thất bình thường hoặc nhỏ (hành ảnh khe) và không có khối nội sọ trên chẩn đoán hình ảnh
|}
Các tiêu chí trên được Smith sửa đổi vào năm 1985, gọi là "tiêu chí Dandy sửa đổi". Smith sử dụng chẩn đoán hình ảnh tiên tiến hơn: Dandy đã yêu cầu [[chụp khí não]] (''Pneumoencephalography'') bằng X-quang, nhưng Smith đã thay thế bằng [[chụp cắt lớp vi tính]]. <ref name="JLSmith">{{Chú thích tập san học thuật |last=Smith JL |year=1985 |title=Whence pseudotumor cerebri? |journal=Journal of Clinical Neuroophthalmology |volume=5 |issue=1 |pages=55–6 |pmid=3156890}}</ref> Trong một bài báo năm 2001, Digre và Corbett đã sửa đổi thêm các tiêu chí của Dandy. Họ bổ sung thêm tiêu chí rằng người đó phải tỉnh, tiếp xúc tốt, vì tình trạng hôn mê ngăn cản đánh giá thần kinh đầy đủ và đưa ra các tiêu chí để loại trừ huyết khối xoang tĩnh mạch. Hơn nữa, họ đã thêm tiêu chí rằng không tìm thấy bất cú nguyên nhân nào gây ra TALNS vô căn. <ref name="Binder">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Binder DK, Horton JC, Lawton MT, McDermott MW |date=March 2004 |title=Idiopathic intracranial hypertension |journal=Neurosurgery |volume=54 |issue=3 |pages=538–51; discussion 551–2 |doi=10.1227/01.NEU.0000109042.87246.3C |pmid=15028127}}</ref> <ref name="Acheson">{{Chú thích tập san học thuật |last=Acheson JF |year=2006 |title=Idiopathic intracranial hypertension and visual function |journal=British Medical Bulletin |volume=79–80 |issue=1 |pages=233–44 |citeseerx=10.1.1.131.9802 |doi=10.1093/bmb/ldl019 |pmid=17242038}}</ref> <ref name="DigreCorbett">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Digre KB, Corbett JJ |year=2001 |title=Idiopathic intracranial hypertension (pseudotumor cerebri): A reappraisal |journal=Neurologist |volume=7 |pages=2–67 |doi=10.1097/00127893-200107010-00002}}</ref>
{| align="center" border="1" style="text-align: center; background: #FFFFFF;"
|+Tiêu chuẩn Dandy đã sửa đổi <ref name="DigreCorbett">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Digre KB, Corbett JJ |year=2001 |title=Idiopathic intracranial hypertension (pseudotumor cerebri): A reappraisal |journal=Neurologist |volume=7 |pages=2–67 |doi=10.1097/00127893-200107010-00002}}</ref>
| 1 Triệu chứng tăng áp lực nội sọ (nhức đầu, buồn nôn, nôn, giảm thị giác qua hoặc phù gai thị)
|- bgcolor="#EFEFEF"
| 2 Không có dấu hiệu thần kinh khu trú, ngoại trừ liệt dây thần kinh vận động (thần kinh giạng)
|- bgcolor="#EFEFEF"
| 3 Bệnh nhân tỉnh, tiếp xúc tốt
|- bgcolor="#EFEFEF"
| 4 Hình ảnh CT/MRI bình thường không có bằng chứng huyết khối
|- bgcolor="#EFEFEF"
| 5 Áp suất mở DNT >25 cmH<sub>2</sub>O và trong DNT, thành phần sinh hóa và tế bào bình thường
|- bgcolor="#EFEFEF"
| 6 Không có lời giải thích nguyên nhân phù hợp cho tăng áp lực nội sọ
|}
Trong một tổng quan năm 2002, Friedman và Jacobson đề xuất một bộ tiêu chí thay thế, bắt nguồn từ các tiêu chí của Smith. Bộ tiêu chí này yêu cầu chọc dò thắt lưng ở tư thế bệnh nhân nằm nghiêng, vì chọc dò thắt lưng khi ngồi thẳng có thể dẫn đến làm tăng áp lực nội sọ giả tạo. Friedman và Jacobson cũng không yêu cầu chụp cộng hưởng từ tĩnh mạch (MRV) cho tất cả bệnh nhân chỉ chỉ định cận lâm sàng này trong các trường hợp không điển hình. <ref name="FriedmanJacobson2002">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Friedman DI, Jacobson DM |year=2002 |title=Diagnostic criteria for idiopathic intracranial hypertension |journal=Neurology |volume=59 |issue=10 |pages=1492–1495 |doi=10.1212/01.wnl.0000029570.69134.1b |pmid=12455560}}</ref>

== Điều trị ==
Mục tiêu trong điều trị TALNS vô căn là ngăn ngừa giảm thị lực gây mù lòa và kiểm soát triệu chứng. <ref name="Acheson">{{Chú thích tập san học thuật |last=Acheson JF |year=2006 |title=Idiopathic intracranial hypertension and visual function |journal=British Medical Bulletin |volume=79–80 |issue=1 |pages=233–44 |citeseerx=10.1.1.131.9802 |doi=10.1093/bmb/ldl019 |pmid=17242038}}</ref> TALNS vô căn được điều trị chủ yếu thông qua việc giảm áp lực DNT và TALNS vô căn có thể khỏi sau điều trị ban đầu, có thể tự thuyên giảm (mặc dù vẫn có thể tái phát) hoặc có thể kéo dài mạn tính. <ref name="Binder">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Binder DK, Horton JC, Lawton MT, McDermott MW |date=March 2004 |title=Idiopathic intracranial hypertension |journal=Neurosurgery |volume=54 |issue=3 |pages=538–51; discussion 551–2 |doi=10.1227/01.NEU.0000109042.87246.3C |pmid=15028127}}</ref> <ref name="FriedmanJacobson2002">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Friedman DI, Jacobson DM |year=2002 |title=Diagnostic criteria for idiopathic intracranial hypertension |journal=Neurology |volume=59 |issue=10 |pages=1492–1495 |doi=10.1212/01.wnl.0000029570.69134.1b |pmid=12455560}}</ref>

=== Chọc dịch não tủy ===
[[Tập tin:Wikipedian_getting_a_lumbar_puncture_(2006).jpg|nhỏ| Đang tiến hành [[Chọc dò thắt lưng|chọc dịch não tủy]]. Vùng màu nâu là vùng được sát trùng bằng dung dịch chứa [[iod]]. Trong hình ảnh này, bệnh nhân đang ngồi thẳng. Tư thế giúp thực hiện quy trình dễ dàng hơn nhưng làm kết quả đo áp suất mở trở nên không đáng tin cậy.]]
Bước đầu tiên trong kiểm soát triệu chứng là dẫn lưu dịch não tủy bằng cách chọc dịch não tủy (hay chọc dò tủy sống). Chọc dịch não tủy giúp vừa chẩn đoán (chẳng hạn như tìm các marker viêm trong nhiễm trùng dịch não tủy), vừa điều trị. Trong một số trường hợp, thủ thuật này là đủ để kiểm soát các triệu chứng và không cần điều trị thêm. <ref name="Soler">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Soler D, Cox T, Bullock P, Calver DM, Robinson RO |date=January 1998 |title=Diagnosis and management of benign intracranial hypertension |url= |journal=Archives of Disease in Childhood |volume=78 |issue=1 |pages=89–94 |doi=10.1136/adc.78.1.89 |pmc=1717437 |pmid=9534686}}</ref> <ref name="Acheson">{{Chú thích tập san học thuật |last=Acheson JF |year=2006 |title=Idiopathic intracranial hypertension and visual function |journal=British Medical Bulletin |volume=79–80 |issue=1 |pages=233–44 |citeseerx=10.1.1.131.9802 |doi=10.1093/bmb/ldl019 |pmid=17242038}}</ref>

Thủ thuật trên có thể làm lại nhiều lần nếu cần thiết, nhưng ở những trường hợp này thường phải điều trị bổ sung để kiểm soát các triệu chứng và duy trì thị lực. Việc chọc dịch não tủy lặp đi lặp lại khiến bệnh nhân đau đớn và làm tăng nguy cơ gây nhiễm trùng cột sống. <ref name="Binder">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Binder DK, Horton JC, Lawton MT, McDermott MW |date=March 2004 |title=Idiopathic intracranial hypertension |journal=Neurosurgery |volume=54 |issue=3 |pages=538–51; discussion 551–2 |doi=10.1227/01.NEU.0000109042.87246.3C |pmid=15028127}}</ref> <ref name="Soler">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Soler D, Cox T, Bullock P, Calver DM, Robinson RO |date=January 1998 |title=Diagnosis and management of benign intracranial hypertension |url= |journal=Archives of Disease in Childhood |volume=78 |issue=1 |pages=89–94 |doi=10.1136/adc.78.1.89 |pmc=1717437 |pmid=9534686}}</ref> Đôi khi cần phải chọc dò thắt lưng nhiều lần để kiểm soát áp lực nội sọ khẩn cấp nếu thị lực của bệnh nhân suy giảm nhanh chóng. <ref name="Acheson">{{Chú thích tập san học thuật |last=Acheson JF |year=2006 |title=Idiopathic intracranial hypertension and visual function |journal=British Medical Bulletin |volume=79–80 |issue=1 |pages=233–44 |citeseerx=10.1.1.131.9802 |doi=10.1093/bmb/ldl019 |pmid=17242038}}</ref>

=== Thuốc ===
Một trong những thuốc điều trị tăng áp lực nội sọ được chứng minh bằng các nghiên cứu chất lượng cao chính là [[acetazolamide]] (Diamox), hoạt động bằng cách ức chế enzyme [[carbonic anhydrase]] (CA) và làm giảm sản xuất DNT từ 6 đến 57%. Tác dụng phụ của thuốc là làm [[hạ kali máu]], gây yếu cơ và ngứa ran ở các ngón tay. Acetazolamide không được sử dụng trong thời kỳ mang thai, vì thuốc đã được chứng minh là gây ra những bất thường về phôi thai trong các nghiên cứu trên động vật. Ngoài ra, ở người, thuốc đã được chứng minh là gây [[toan chuyển hóa]] cũng như làm [[Mất cân bằng điện giải|rối loạn điện giải trong máu]] của trẻ sơ sinh. Thuốc lợi tiểu [[furosemide]] đôi khi được chỉ định để điều trị nếu bệnh nhân không dung nạp acetazolamide, nhưng thuốc này có thể ít tác dụng lên áp lực nội sọ. <ref name="Binder">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Binder DK, Horton JC, Lawton MT, McDermott MW |date=March 2004 |title=Idiopathic intracranial hypertension |journal=Neurosurgery |volume=54 |issue=3 |pages=538–51; discussion 551–2 |doi=10.1227/01.NEU.0000109042.87246.3C |pmid=15028127}}</ref> <ref name="Acheson">{{Chú thích tập san học thuật |last=Acheson JF |year=2006 |title=Idiopathic intracranial hypertension and visual function |journal=British Medical Bulletin |volume=79–80 |issue=1 |pages=233–44 |citeseerx=10.1.1.131.9802 |doi=10.1093/bmb/ldl019 |pmid=17242038}}</ref>

Có thể sử dụng nhiều loại [[thuốc giảm đau]] để kiểm soát cơn đau đầu do tăng áp lực nội sọ. Ngoài các thuốc thông thường như [[paracetamol]], thuốc chống trầm cảm [[amitriptyline]] liều thấp hoặc thuốc chống co giật [[topiramate]] đã được theo dõi trong nghiên cứu là có tác động bổ sung giúp giảm đau. <ref name="Acheson">{{Chú thích tập san học thuật |last=Acheson JF |year=2006 |title=Idiopathic intracranial hypertension and visual function |journal=British Medical Bulletin |volume=79–80 |issue=1 |pages=233–44 |citeseerx=10.1.1.131.9802 |doi=10.1093/bmb/ldl019 |pmid=17242038}}</ref>

Việc sử dụng [[glucocorticoid]] để làm giảm áp lực nội sọ còn đang gây tranh cãi. Corticoid có thể sử dụng trong trường hợp phù nề nặng. Nếu không có phù nề thì việc sử dụng corticoid không được khuyến khích. <ref name="Binder">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Binder DK, Horton JC, Lawton MT, McDermott MW |date=March 2004 |title=Idiopathic intracranial hypertension |journal=Neurosurgery |volume=54 |issue=3 |pages=538–51; discussion 551–2 |doi=10.1227/01.NEU.0000109042.87246.3C |pmid=15028127}}</ref>

=== Đặt stent xoang tĩnh mạch ===
Hẹp xoang tĩnh mạch dẫn đến tăng áp lực tĩnh mạch dường như đóng một vai trò quan trọng liên quan đến tăng ICP và đặt stent xoang ngang có thể giải quyết tăng áp lực tĩnh mạch, dẫn đến cải thiện tái hấp thu CSF, giảm ICP, chữa khỏi phù nề và các triệu chứng khác của TALNS vô căn. <ref name="Ahmed">{{Chú thích tập san học thuật |last=Ahmed |first=RM |last2=Wilkinson |first2=M |last3=Parker |first3=GD |last4=Thurtell |first4=MJ |last5=Macdonald |first5=J |last6=McCluskey |first6=PJ |last7=Allan |first7=R |last8=Dunne |first8=V |last9=Hanlon |first9=M |last10=Owler |first10=BK |last11=Halmagyi |first11=GM |date=Sep 2011 |title=Transverse sinus stenting for idiopathic intracranial hypertension: a review of 52 patients and of model predictions. |journal=AJNR. American Journal of Neuroradiology |volume=32 |issue=8 |pages=1408–14 |doi=10.3174/ajnr.a2575 |pmc=7964366 |pmid=21799038 |doi-access=free}}</ref>

Một stent kim loại tự mở rộng được triển khai vĩnh viễn trong xoang ngang chiếm ưu thế trên chỗ hẹp dưới gây mê toàn thân. Nói chung, mọi người được xuất viện vào ngày hôm sau. Mọi người cần điều trị kháng tiểu cầu kép trong thời gian tối đa 3 tháng sau thủ thuật và điều trị bằng aspirin trong tối đa 1 năm.

Trong một phân tích có hệ thống của 19 nghiên cứu với 207 trường hợp, đã có sự cải thiện 87% về tỷ lệ triệu chứng chung và tỷ lệ chữa khỏi bệnh phù gai thị là 90%. Biến chứng nặng chỉ xảy ra ở 3/207 người (1,4%). <ref>{{Chú thích tập san học thuật |last=Teleb |first=MS |last2=Cziep |first2=ME |last3=Lazzaro |first3=MA |last4=Gheith |first4=A |last5=Asif |first5=K |last6=Remler |first6=B |last7=Zaidat |first7=OO |date=2013 |title=Idiopathic Intracranial Hypertension. A Systematic Analysis of Transverse Sinus Stenting. |journal=Interventional Neurology |volume=2 |issue=3 |pages=132–143 |doi=10.1159/000357503 |pmc=4080637 |pmid=24999351}}</ref> Trong loạt đặt stent xoang ngang lớn nhất, tỷ lệ tái phát sau một lần đặt stent là 11%, cần phải đặt thêm stent. <ref name="Ahmed">{{Chú thích tập san học thuật |last=Ahmed |first=RM |last2=Wilkinson |first2=M |last3=Parker |first3=GD |last4=Thurtell |first4=MJ |last5=Macdonald |first5=J |last6=McCluskey |first6=PJ |last7=Allan |first7=R |last8=Dunne |first8=V |last9=Hanlon |first9=M |last10=Owler |first10=BK |last11=Halmagyi |first11=GM |date=Sep 2011 |title=Transverse sinus stenting for idiopathic intracranial hypertension: a review of 52 patients and of model predictions. |journal=AJNR. American Journal of Neuroradiology |volume=32 |issue=8 |pages=1408–14 |doi=10.3174/ajnr.a2575 |pmc=7964366 |pmid=21799038 |doi-access=free}}</ref>

=== Phẫu thuật ===
Có hai quy trình phẫu thuật chính tồn tại trong điều trị TALNS vô căn: ''giải nén bao thần kinh thị giác, làm thủng'' và tạo shunt . Phẫu thuật thường chỉ được thực hiện nếu điều trị nội khoa không thành công hoặc không dung nạp được. <ref name="Soler">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Soler D, Cox T, Bullock P, Calver DM, Robinson RO |date=January 1998 |title=Diagnosis and management of benign intracranial hypertension |url= |journal=Archives of Disease in Childhood |volume=78 |issue=1 |pages=89–94 |doi=10.1136/adc.78.1.89 |pmc=1717437 |pmid=9534686}}</ref> <ref name="Acheson">{{Chú thích tập san học thuật |last=Acheson JF |year=2006 |title=Idiopathic intracranial hypertension and visual function |journal=British Medical Bulletin |volume=79–80 |issue=1 |pages=233–44 |citeseerx=10.1.1.131.9802 |doi=10.1093/bmb/ldl019 |pmid=17242038}}</ref> Sự lựa chọn giữa hai thủ tục này phụ thuộc vào vấn đề chính trong TALNS vô căn. Không có quy trình nào là hoàn hảo: cả hai đều có thể gây ra các biến chứng đáng kể và cả hai cuối cùng có thể thất bại trong việc kiểm soát các triệu chứng. Không có [[thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng]] nào để hướng dẫn quyết định xem quy trình nào là tốt nhất. <ref name="Acheson" />

[[Optic nerve sheath fenestration|Cắt bao thần kinh thị giác]] là một phẫu thuật liên quan đến việc rạch một đường ở lớp lót mô liên kết của [[Thần kinh thị giác|dây thần kinh thị giác]] ở phần phía sau mắt. Không hoàn toàn rõ ràng làm thế nào nó bảo vệ mắt khỏi áp lực tăng lên, nhưng nó có thể là kết quả của việc chuyển dịch CSF vào quỹ đạo hoặc tạo ra một vùng mô sẹo làm giảm áp suất. <ref name="Acheson">{{Chú thích tập san học thuật |last=Acheson JF |year=2006 |title=Idiopathic intracranial hypertension and visual function |journal=British Medical Bulletin |volume=79–80 |issue=1 |pages=233–44 |citeseerx=10.1.1.131.9802 |doi=10.1093/bmb/ldl019 |pmid=17242038}}</ref> Các tác động đối với áp lực nội sọ là khiêm tốn hơn. Hơn nữa, quy trình này có thể dẫn đến các biến chứng đáng kể, bao gồm mù lòa ở 1–2%. <ref name="Binder">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Binder DK, Horton JC, Lawton MT, McDermott MW |date=March 2004 |title=Idiopathic intracranial hypertension |journal=Neurosurgery |volume=54 |issue=3 |pages=538–51; discussion 551–2 |doi=10.1227/01.NEU.0000109042.87246.3C |pmid=15028127}}</ref> Do đó, quy trình này được khuyến nghị chủ yếu ở những người có triệu chứng đau đầu hạn chế nhưng phù nề đáng kể hoặc thị lực bị đe dọa, hoặc ở những người đã trải qua điều trị không thành công bằng shunt hoặc có chống chỉ định phẫu thuật shunt. <ref name="Acheson" />

Phẫu thuật shunt, thường được thực hiện bởi [[Phẫu thuật thần kinh|các bác sĩ phẫu thuật thần kinh]], liên quan đến việc tạo ra một ống dẫn mà CSF có thể được dẫn lưu vào một khoang cơ thể khác. Thủ tục ban đầu thường là một shunt thắt lưng phúc mạc (LP), nối khoang dưới nhện ở [[Đốt sống thắt lưng|cột sống thắt lưng]] với [[Ổ phúc mạc|khoang phúc mạc]] . <ref name="pmid20508332">{{Chú thích tập san học thuật |last=Yadav |first=YadR |last2=Parihar, Vijay |last3=Sinha, Mallika |date=1 January 2010 |title=Lumbar peritoneal shunt |journal=Neurology India |volume=58 |issue=2 |pages=179–84 |doi=10.4103/0028-3886.63778 |pmid=20508332}}</ref> Nói chung, một van áp suất được bao gồm trong mạch để tránh thoát nước quá mức khi người đó đứng thẳng. LP shunt cung cấp cứu trợ lâu dài trong khoảng một nửa số trường hợp; những trường hợp khác yêu cầu sửa lại ống dẫn lưu, thường là nhiều hơn một lần—thường là do tắc nghẽn ống dẫn lưu. Nếu shunt vùng thắt lưng phúc mạc cần sửa đổi nhiều lần, có thể xem xét ''shunt'' ''não thất'' hoặc não thất. Các shunt này được chèn vào một trong các não thất bên của não, thường là bằng phẫu thuật lập thể, sau đó nối tương ứng với [[Tâm nhĩ|tâm nhĩ phải]] của tim hoặc khoang phúc mạc. <ref name="Binder">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Binder DK, Horton JC, Lawton MT, McDermott MW |date=March 2004 |title=Idiopathic intracranial hypertension |journal=Neurosurgery |volume=54 |issue=3 |pages=538–51; discussion 551–2 |doi=10.1227/01.NEU.0000109042.87246.3C |pmid=15028127}}</ref> <ref name="Acheson">{{Chú thích tập san học thuật |last=Acheson JF |year=2006 |title=Idiopathic intracranial hypertension and visual function |journal=British Medical Bulletin |volume=79–80 |issue=1 |pages=233–44 |citeseerx=10.1.1.131.9802 |doi=10.1093/bmb/ldl019 |pmid=17242038}}</ref> Do nhu cầu sửa đổi các shunt não thất giảm đi, có thể quy trình này sẽ trở thành loại điều trị shunt đầu tiên. <ref name="Binder" />

Người ta đã chứng minh rằng ở những người béo phì, phẫu thuật giảm béo (và đặc biệt là phẫu thuật bắc cầu dạ dày ) có thể giúp giải quyết tình trạng bệnh trên 95%. <ref name="Binder">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Binder DK, Horton JC, Lawton MT, McDermott MW |date=March 2004 |title=Idiopathic intracranial hypertension |journal=Neurosurgery |volume=54 |issue=3 |pages=538–51; discussion 551–2 |doi=10.1227/01.NEU.0000109042.87246.3C |pmid=15028127}}</ref>

== tiên lượng ==
Người ta không biết bao nhiêu phần trăm những người mắc TALNS vô căn sẽ tự thuyên giảm và bao nhiêu phần trăm sẽ phát triển thành bệnh mãn tính. <ref name="Acheson">{{Chú thích tập san học thuật |last=Acheson JF |year=2006 |title=Idiopathic intracranial hypertension and visual function |journal=British Medical Bulletin |volume=79–80 |issue=1 |pages=233–44 |citeseerx=10.1.1.131.9802 |doi=10.1093/bmb/ldl019 |pmid=17242038}}</ref>

TALNS vô căn thường không ảnh hưởng đến tuổi thọ. Các biến chứng chính của TALNS vô căn phát sinh từ chứng phù gai thị không được điều trị hoặc kháng trị. Trong nhiều trường hợp khác nhau, nguy cơ lâu dài về thị lực của một người bị ảnh hưởng đáng kể bởi TALNS vô căn được báo cáo là nằm trong khoảng từ 10 đến 25%. <ref name="Binder">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Binder DK, Horton JC, Lawton MT, McDermott MW |date=March 2004 |title=Idiopathic intracranial hypertension |journal=Neurosurgery |volume=54 |issue=3 |pages=538–51; discussion 551–2 |doi=10.1227/01.NEU.0000109042.87246.3C |pmid=15028127}}</ref> <ref name="Acheson">{{Chú thích tập san học thuật |last=Acheson JF |year=2006 |title=Idiopathic intracranial hypertension and visual function |journal=British Medical Bulletin |volume=79–80 |issue=1 |pages=233–44 |citeseerx=10.1.1.131.9802 |doi=10.1093/bmb/ldl019 |pmid=17242038}}</ref>

== Dịch tễ học ==
[[Tập tin:IIH_incidence.png|nhỏ| Số ca mắc bệnh TALNS vô căn mới mỗi năm được xác định rõ ràng bởi giới tính và [[Khối lượng cơ thể người|trọng lượng cơ thể]] . Các số liệu ở nữ là ở phụ nữ từ 20 đến 45 tuổi. <ref name="Binder">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Binder DK, Horton JC, Lawton MT, McDermott MW |date=March 2004 |title=Idiopathic intracranial hypertension |journal=Neurosurgery |volume=54 |issue=3 |pages=538–51; discussion 551–2 |doi=10.1227/01.NEU.0000109042.87246.3C |pmid=15028127}}</ref>]]
Trung bình, TALNS vô căn xảy ra ở khoảng một người trên 100.000 người và có thể xảy ra ở trẻ em và người lớn. Độ tuổi [[Số trung vị|trung bình]] lúc chẩn đoán là 30. TALNS vô căn xảy ra chủ yếu ở phụ nữ, đặc biệt là ở độ tuổi từ 20 đến 45, những người có khả năng bị ảnh hưởng cao gấp 4 đến 8 lần so với nam giới. [[Thừa cân]] và [[béo phì]] khiến một người dễ mắc TALNS vô căn: những phụ nữ có [[Khối lượng cơ thể người|trọng lượng cơ thể lý tưởng]] cao hơn mười phần trăm có nguy cơ mắc TALNS vô căn cao gấp 13lần và con số này tăng lên gấp 19lần ở những phụ nữ có trọng lượng cơ thể cao hơn 20% trọng lượng lý tưởng. Ở nam giới, mối quan hệ này cũng tồn tại, nhưng mức tăng chỉ gấp 5 lần ở những người trên 20% so với trọng lượng cơ thể lý tưởng của họ. <ref name="Binder">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Binder DK, Horton JC, Lawton MT, McDermott MW |date=March 2004 |title=Idiopathic intracranial hypertension |journal=Neurosurgery |volume=54 |issue=3 |pages=538–51; discussion 551–2 |doi=10.1227/01.NEU.0000109042.87246.3C |pmid=15028127}}</ref>

Mặc dù có một số báo cáo về TALNS vô căn trong các gia đình, không có nguyên nhân di truyền nào được biết đến đối với TALNS vô căn. Mọi người thuộc mọi [[sắc tộc]] có thể phát triển TALNS vô căn. <ref name="Binder">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Binder DK, Horton JC, Lawton MT, McDermott MW |date=March 2004 |title=Idiopathic intracranial hypertension |journal=Neurosurgery |volume=54 |issue=3 |pages=538–51; discussion 551–2 |doi=10.1227/01.NEU.0000109042.87246.3C |pmid=15028127}}</ref> Ở trẻ em, không có sự khác biệt về tỷ lệ mắc bệnh giữa nam và nữ. <ref name="Soler">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Soler D, Cox T, Bullock P, Calver DM, Robinson RO |date=January 1998 |title=Diagnosis and management of benign intracranial hypertension |url= |journal=Archives of Disease in Childhood |volume=78 |issue=1 |pages=89–94 |doi=10.1136/adc.78.1.89 |pmc=1717437 |pmid=9534686}}</ref>

Từ cơ sở dữ liệu nhập viện quốc gia, có vẻ như nhu cầu can thiệp [[phẫu thuật thần kinh]] cho TALNS vô căn đã tăng lên rõ rệt trong khoảng thời gian từ 1988 đến 2002. Điều này ít nhất một phần là do tỷ lệ béo phì ngày càng gia tăng, <ref name="Curry_et_al_2005">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Curry WT, Butler WE, Barker FG |year=2005 |title=Rapidly rising incidence of cerebrospinal fluid shunting procedures for idiopathic intracranial hypertension in the United States, 1988-2002 |journal=Neurosurgery |volume=57 |issue=1 |pages=97–108; discussion 97–108 |doi=10.1227/01.NEU.0000163094.23923.E5 |pmid=15987545}}</ref> mặc dù một số nguyên nhân của sự gia tăng này có thể được giải thích là do sự phổ biến ngày càng tăng của việc đặt ống dẫn lưu đối với tình trạng thủng bao thần kinh thị giác. <ref name="Acheson">{{Chú thích tập san học thuật |last=Acheson JF |year=2006 |title=Idiopathic intracranial hypertension and visual function |journal=British Medical Bulletin |volume=79–80 |issue=1 |pages=233–44 |citeseerx=10.1.1.131.9802 |doi=10.1093/bmb/ldl019 |pmid=17242038}}</ref>

== Lịch sử ==
Báo cáo đầu tiên về TALNS vô căn là của bác sĩ người Đức Heinrich Quincke, người đã mô tả bệnh này vào năm 1893 dưới tên [[Tăng áp lực nội sọ vô căn|viêm màng não huyết thanh]] <ref>{{Chú thích tập san học thuật |last=Quincke HI |year=1893 |title=Meningitis serosa |journal=Sammlung Klinischer Vorträge |volume=67 |pages=655}}</ref> Thuật ngữ "pseudotumor cerebri" được giới thiệu vào năm 1904 bởi người đồng hương của ông là Max Nonne . <ref>{{Chú thích tập san học thuật |last=Nonne M |year=1904 |title=Ueber Falle vom Symptomkomplex "Tumor Cerebri" mit Ausgang in Heilung (Pseudotumor Cerebri) |journal=Deutsche Zeitschrift für Nervenheilkunde |language=de |volume=27 |issue=3–4 |pages=169–216 |doi=10.1007/BF01667111}}</ref> Nhiều trường hợp khác xuất hiện trong tài liệu sau đó; trong nhiều trường hợp, áp lực nội sọ tăng lên thực sự có thể là kết quả của các điều kiện cơ bản. <ref name="Johnston">{{Chú thích tập san học thuật |last=Johnston I |year=2001 |title=The historical development of the pseudotumor concept |url=http://www.medscape.com/viewarticle/405734_1 |journal=Neurosurgical Focus |volume=11 |issue=2 |pages=1–9 |doi=10.3171/foc.2001.11.2.3 |pmid=16602675 |doi-access=free}}</ref> Ví dụ, [[Tăng áp lực nội sọ vô căn|não úng thủy tai]] do nhà thần kinh học Sir Charles Symonds ở London báo cáo có thể là kết quả của huyết khối xoang tĩnh mạch do [[Viêm tai giữa|nhiễm trùng tai giữa]] . <ref name="Johnston" /> <ref>{{Chú thích tập san học thuật |last=Symonds CP |year=1931 |title=Otitic hydrocephalus |journal=Brain |volume=54 |pages=55–71 |doi=10.1093/brain/54.1.55}} Also printed in {{Chú thích tập san học thuật |last=Symonds CP |date=January 1932 |title=Otitic hydrocephalus |journal=Br Med J |volume=1 |issue=3705 |pages=53–4 |doi=10.1136/bmj.1.3705.53 |pmc=2519971 |pmid=20776602}}</ref> Các tiêu chuẩn chẩn đoán cho TALNS vô căn được phát triển vào năm 1937 bởi bác sĩ giải phẫu thần kinh Walter Dandy [[Baltimore|ở Baltimore]] ; Dandy cũng giới thiệu phẫu thuật giải nén dưới thái dương để điều trị tình trạng này. <ref name="Dandy1937">{{Chú thích tập san học thuật |last=Dandy WE |date=October 1937 |title=Intracranial pressure without brain tumor - diagnosis and treatment |journal=Annals of Surgery |volume=106 |issue=4 |pages=492–513 |doi=10.1097/00000658-193710000-00002 |pmc=1390605 |pmid=17857053}}</ref> <ref name="Johnston" />

Thuật ngữ "lành tính" và "khối u giả" xuất phát từ thực tế là tăng áp lực nội sọ có thể liên quan đến [[U não|khối u não]] . Do đó, những người không tìm thấy khối u được chẩn đoán là "giả u não" (một căn bệnh bắt chước khối u não). Căn bệnh này được đổi tên thành [[Tăng áp lực nội sọ vô căn|tăng áp lực nội sọ lành tính]] vào năm 1955 để phân biệt với tăng áp lực nội sọ do các bệnh đe dọa tính mạng (chẳng hạn như ung thư); <ref>{{Chú thích tập san học thuật |last=Foley J |year=1955 |title=Benign forms of intracranial hypertension; toxic and otitic hydrocephalus |journal=Brain |volume=78 |issue=1 |pages=1–41 |doi=10.1093/brain/78.1.1 |pmid=14378448}}</ref> tuy nhiên, điều này cũng được cho là gây hiểu lầm vì bất kỳ bệnh nào có thể gây mù cho một người nào đó không nên được coi là lành tính, và do đó, tên này đã được sửa lại vào năm 1989 thành "tăng áp lực nội sọ vô căn (không xác định được nguyên nhân)". <ref>{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Corbett JJ, Thompson HS |date=October 1989 |title=The rational management of idiopathic intracranial hypertension |journal=Archives of Neurology |volume=46 |issue=10 |pages=1049–51 |doi=10.1001/archneur.1989.00520460025008 |pmid=2679506}}</ref> <ref>{{Chú thích tập san học thuật |last=Bandyopadhyay S |year=2001 |title=Pseudotumor cerebri |journal=Archives of Neurology |volume=58 |issue=10 |pages=1699–701 |doi=10.1001/archneur.58.10.1699 |pmid=11594936}}</ref>

Phẫu thuật shunt được giới thiệu vào năm 1949; ban đầu, shunt não thất được sử dụng. Năm 1971, kết quả tốt đã được báo cáo với shunt thắt lưng phúc mạc. Các báo cáo tiêu cực về shunt trong những năm 1980 đã dẫn đến một giai đoạn ngắn (1988–1993) trong đó tình trạng thủng dây thần kinh thị giác (ban đầu được mô tả trong một tình trạng không liên quan vào năm 1871) phổ biến hơn. Kể từ đó, shunt chủ yếu được khuyến nghị, thỉnh thoảng có những trường hợp ngoại lệ. <ref name="Binder">{{Chú thích tập san học thuật |vauthors=Binder DK, Horton JC, Lawton MT, McDermott MW |date=March 2004 |title=Idiopathic intracranial hypertension |journal=Neurosurgery |volume=54 |issue=3 |pages=538–51; discussion 551–2 |doi=10.1227/01.NEU.0000109042.87246.3C |pmid=15028127}}</ref> <ref name="Acheson">{{Chú thích tập san học thuật |last=Acheson JF |year=2006 |title=Idiopathic intracranial hypertension and visual function |journal=British Medical Bulletin |volume=79–80 |issue=1 |pages=233–44 |citeseerx=10.1.1.131.9802 |doi=10.1093/bmb/ldl019 |pmid=17242038}}</ref>

== Tham kho ==
<references group="" responsive="1"></references>

== Liên kết ngoài ==
{{Medical resources}}

* {{Dmoz|Health/Conditions_and_Diseases/Neurological_Disorders/Brain_Diseases/Intracranial_Hypertension/}}
[[Thể loại:Thể loại:RTT]]
[[Thể loại:Thể loại:RTT]]
[[Thể loại:Thể loại:Bệnh chưa rõ nguyên nhân]]
[[Thể loại:Thể loại:Bệnh chưa rõ nguyên nhân]]
[[Thể loại:Thể loại:Bệnh về mắt]]
[[Thể loại:Thể loại:Bệnh về mắt]]
[[Thể loại:Thể loại:Đau đầu]]
[[Thể loại:Thể loại:Đau đầu]]
[[Thể loại:Trang có bản dịch chưa được xem lại]]

Phiên bản lúc 13:28, ngày 11 tháng 4 năm 2023

Tăng áp lực nội sọ vô căn (viết tắt: TALNS vô căn), trước đây được gọi là giả u não hay tăng áp lực nội sọ lành tính là một tình trạng tăng áp lực nội sọ (áp lực xung quanh não) mà không tìm thấy được nguyên nhân. [1] Các triệu chứng chính là đau đầu, vấn đề về thị lực, ù tai và đau vai,[2] có thể gây biến chứng . [1]

Vô căn có nghĩa là không tìm thấy nguyên nhân. Tuy vậy, thừa cân hoặc tăng cân nhanh trong thời gian ngắn,[2] sử dụng tetracycline là những yếu tố nguy cơ gây tăng áp lực nội sọ vô căn. [1] Chẩn đoán dựa vào triệu chứng lâm sàng,chọc dịch não tủy thấy áp lực cao và không thấy nguyên nhân cụ thể thể hiện trên chẩn đoán hình ảnh. [2] [1]

Để điều trị, cần có một chế độ ăn uống lành mạnh, hạn chế muối và tích cực tập thể dục. [1] Có thể sử dụng kèm thuốc acetazolamide. [1] Một tỷ lệ nhỏ bệnh nhân cần phẫu thuật giải áp. [1]

Mỗi năm có khoảng 2 trên 100.000 người mắc mới. [3] Tình trạng này thường ảnh hưởng nhất đến phụ nữ ở độ tuổi 20–50. [1] Phụ nữ bị nhiều hơn nam giới khoảng 20 lần. [1] Tăng áp lực nội sọ vô căn được mô tả lần đầu tiên vào năm 1897. [2]

Triệu chứng cơ năng và triệu chứng thực thể

Triệu chứng phổ biến nhất của TALNS vô căn là nhức đầu dữ dội, xảy ra ở hầu hết (92–94%) trường hợp. Đau đầu tăng lên vào buổi sáng, đau toàn bộ vùng đầu và đau nhói. Đau đầu có thể kèm với buồn nôn và nôn. Cơn đau đầu có thể nặng hơn nếu có những hành động làm tăng áp lực nội sọ, chẳng hạn như ho, hắt hơi hoặc làm nghiệm pháp Valsava. Cơn đau có thể lan xuống cổ và vai. [4] Nhiều người bị ù tai theo mạch đập, ù tai ở một hoặc cả hai tai (64–87%). [4] [5] Nhiều triệu chứng khác, chẳng hạn như dị cảm tứ chi, yếu liệt toàn thân, đau và/hoặc dị cảm ở một hoặc cả hai bên mặt, mất khứu giác và hiếm gặp hơn là thất điều (mất điều hòa vận động); các triệu chứng trên không đặc hiệu cho TALNS vô căn. [4] Trẻ em có nhiều triệu chứng không đặc hiệu. [6]

Áp lực gia tăng dẫn đến chèn ép hoặc đứt dây thần kinh sọcho phối cho mặt và cổ, hay gặp nhất là dây thần kinh giạng (thần kinh 6). Dây thần kinh này cung cấp cho cơ thẳng ngoài (khi co thì kéo nhãn cầu ra ngoài). Do đó, những người bị liệt thần kinh giạng bị nhìn đôi theo chiều ngang, nhìn đôi tệ hơn khi nhìn về phía bị liệt. Hiếm khi hơn, thần kinh vận nhãn (thần kinh 3) và thần kinh ròng rọc (thần kinh 4) bị ảnh hưởng; cả hai đều đóng một vai trò trong chuyển động của mắt. [6] [7] Đôi khi thần kinh mặt (dây thần kinh sọ thứ bảy) bị ảnh hưởng – kết quả là các cơ biểu cảm nét mặt ở một hoặc cả hai bên mặt bị liệt hoàn toàn hoặc một phần. [4]

Áp lực gia tăng dẫn đến phù gai thị, tức là phù đĩa thị giác, nơi thần kinh thị giác đi vào nhãn cầu . Điều này thực tế xảy ra trong tất cả các trường hợp TALNS vô căn, nhưng không phải ai cũng gặp phải các triệu chứng này. Những người gặp phải các triệu chứng thường báo cáo về "sự che khuất thị giác thoáng qua", các giai đoạn khó nhìn xảy ra ở cả hai mắt nhưng không nhất thiết phải đồng thời. Phù gai thị không được điều trị trong thời gian dài dẫn đến mất thị lực, ban đầu ở vùng ngoại vi nhưng dần dần về trung tâm thị lực. [4] [8]

Khám thần kinh thường cho kết quả bình thường. Khám mắt bằng một thiết bị nhỏ gọi là kính soi đáy mắt hoặc chi tiết hơn với chụp ảnh màu đáy mắt (fundus color photography) cho hình ảnh phù gai thị. Nếu có bất thường thần kinh sọ, chúng có thể được nhận thấy khi khám mắt dưới dạng lác mắt (liệt dây thần kinh thứ ba, thứ tư hoặc thứ sáu) hoặc liệt dây thần kinh mặt. Nếu phù gai thị đã có từ lâu dẫn đến hạn chế thị trường và giảm thị lực. Khám thị trường bằng chu vi kế (Humphrey) được khuyến nghị vì các phương thức khám thị trường khác kém chính xác hơn. Phù gai thị kéo dài dẫn đến teo thị giác, đặc trưng bởi hình ảnh đĩa thị nhợt nhạt và có giảm thị lực tiến triển. [4] [8]

Nguyên nhân

"Vô căn" có nghĩa là không rõ nguyên nhân. Do đó, TALNS vô căn chỉ có thể được chẩn đoán nếu không có lời giải thích thay thế nào cho các triệu chứng. Áp lực nội sọ có thể tăng lên do các loại thuốc như dẫn xuất vitamin A liều cao (ví dụ isotretinoin trị mụn trứng cá ), kháng sinh tetracyclin điều trị dài ngày (đối với nhiều tình trạng da) và thuốc tránh thai nội tiết .

Có nhiều bệnh gây tăng áp lực nội sọ (hầu hết là các bệnh hiếm gặp). Nếu tăng áp lực nội sọ có nguyên nhân gây ra thì được gọi là "tăng áp lực nội sọ thứ phát". [4] Các nguyên nhân phổ biến của tăng áp lực nội sọ thứ phát bao gồm ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn (rối loạn hô hấp liên quan đến giấc ngủ), lupus ban đỏ hệ thống (SLE), bệnh thận mạn tínhbệnh Behçet . [8]

Cơ chế

Nguyên nhân của TALNS vô căn chưa rõ. Quy tắc Monro–Kellie phát biểu rằng áp lực nội sọ được xác định bởi nhu mô não, dịch não tủy (CSF) và máu bên trong xương sọ. Do đó, có ba lý thuyết giải thích tại sao áp suất có thể tăng lên trong TALNS vô căn: do tiết quá nhiều dịch não tủy, do tăng thể tích máu/nhu mô não hoặc do tắc nghẽn các tĩnh mạch dẫn máu ra khỏi não . [4]

Giả thuyết đầu tiên là tăng tiết dịch não tủy. Tuy nhiên, không có dữ liệu thử nghiệm nào hỗ trợ vai trò của giả thuyết này trong TALNS vô căn. [4]

Giả thuyết thứ hai cho rằng lưu lượng máu đến não hoặc thể tích nhu mô não tăng lên có thể dẫn đến TALNS. Ít bằng chứng ủng hộ cho cơ chế lưu lượng máu tăng. Tuy nhiên, trong các nghiên cứu chụp mạch máu cộng hưởng từ tương phản pha (phase contrast Magnetic Resonance Angiography) của Bateman và cộng sự đã định lượng lưu lượng máu não (CBF) in vivo và thấy rằng lưu lượng máu não tăng cao bất thường ở nhiều người mắc TALNS vô căn. Cả các mẫu sinh thiết và các phương pháp chẩn đoán hình ảnh não khác nhau đều cho thấy hàm lượng nước trong mô não tăng lên. Vẫn chưa rõ tại sao lại có hiện tượng này. [4]

Giả thuyết thứ ba cho rằng việc đưa máu từ tĩnh mạch về tim bị hạn chế. Nhiều người bị TALNS vô căn bị hẹp các xoang tĩnh mạch ngang . [9] Không rõ sự chít hẹp này là cơ chế bệnh sinh của bệnh hay là hiện tượng thứ phát. Có đề xuất cho rằng tồn tại một feedback sinh học dương tính, trong đó áp lực nội sọ (ICP) tăng lên gây ra tình trạng hẹp tĩnh mạch trong các xoang ngang, dẫn đến tăng áp lực tĩnh mạch, làm hạt màng nhện giảm tái hấp thu dịch não tủy, hệ quả là làm tăng áp lực nội sọ. [10]

Chẩn đoán

Siêu âm thần kinh thị giác cho thấy hình ảnh của TALNS vô căn [11]

Chẩn đoán dựa vào bệnh sử và khám lâm sàng. Để xác nhận chẩn đoán và loại trừ các nguyên nhân khác, cần phải làm một số xét nghiệm và chẩn đoán hình ảnh. Có thể phải xét nghiệm hay chẩn đoán hình ảnh kỹ càng hơn nếu biểu hiện bệnh không điển hình. [7]

Cận lâm sàng

Chụp cắt lớp vi tính (CT) hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI), được sử dụng để loại trừ tổn thương dạng khối. Trong TALNS vô căn, chẩn đoán hình ảnh này thường cho kết quả bình thường. Có thể có hình ảnh não thất nhỏ hoặc hẹp, hình ảnh giãn não thất, hình ảnh biến dạng uốn (buckling) của bao dây thần kinh thị giác và "dấu hiệu tuyến yên rỗng" (tuyến yên "phẳng đi" do tăng áp lực) và ổ Meckel giãn rộng.[12]

Chụp tĩnh mạch đồ cộng hưởng từ (magnetic resonance venography, viết tắt là MRV) được chỉ định trong hầu hết các trường hợp để loại trừ khả năng hẹp/tắc xoang tĩnh mạch hoặc huyết khối xoang tĩnh mạch não . [4] [6] [7] Chụp Chụp tĩnh mạch đồ cộng hưởng từ ATECO có cản quang (auto-triggered elliptic centric-ordered magnetic resonance, viết tắt là ATECO MRV) có tỷ lệ phát hiện cao các trường hợp hẹp xoang ngang bất thường. [9] Những chỗ hẹp này có thể được xác định và đánh giá đầy đủ hơn bằng chụp tĩnh mạch não và đo áp suất não qua catheter. [10]

Chọc dịch não tủy được chỉ định để đo áp lực mở, cũng như lấy dịch não tủy (DNT) để loại trừ các chẩn đoán phân biệt khác. Nếu áp lực mở tăng, có thể hút dịch nảo tủy để giảm áp lực tạm thời. [7] Tìm các tế bào bất thường, làm bilan nhiễm trùng, định lượng kháng thể, glucoseprotein trong dịch não tủy để định hướng nguyên nhân . Theo định nghĩa, tất cả các chỉ số trên đều nằm trong giới hạn bình thường trong TALNS vô căn. [7] Đôi khi áp lực DNT vẫn bình thường mặc dù có nhiều triệu chứng rất gợi ý cho bệnh. Nguyên nhân là bởi áp lực DNT dao động trong ngày. Nếu vẫn nghi ngờ thì có thể cần phải thực hiện theo dõi áp lực nội sọ lâu dài hơn bằng catheter áp lực. [7]

Phân loại

Năm 1937, Dandy liệt kê các tiêu chí chẩn đoán TALNS vô căn. [13]

Tiêu chí Dandy [13]
1 Các triệu chứng cơ năng và triệu chứng thực thể của tăng áp lực nội sọi và áp lực DNT >25 cmH2O
2 Không có dấu hiệu thần kinh khu trú, ngoại trừ liệt thần kinh vận động
3 Thành phần DNT bình thường
4 Não thất bình thường hoặc nhỏ (hành ảnh khe) và không có khối nội sọ trên chẩn đoán hình ảnh

Các tiêu chí trên được Smith sửa đổi vào năm 1985, gọi là "tiêu chí Dandy sửa đổi". Smith sử dụng chẩn đoán hình ảnh tiên tiến hơn: Dandy đã yêu cầu chụp khí não (Pneumoencephalography) bằng X-quang, nhưng Smith đã thay thế bằng chụp cắt lớp vi tính. [14] Trong một bài báo năm 2001, Digre và Corbett đã sửa đổi thêm các tiêu chí của Dandy. Họ bổ sung thêm tiêu chí rằng người đó phải tỉnh, tiếp xúc tốt, vì tình trạng hôn mê ngăn cản đánh giá thần kinh đầy đủ và đưa ra các tiêu chí để loại trừ huyết khối xoang tĩnh mạch. Hơn nữa, họ đã thêm tiêu chí rằng không tìm thấy bất cú nguyên nhân nào gây ra TALNS vô căn. [4] [8] [15]

Tiêu chuẩn Dandy đã sửa đổi [15]
1 Triệu chứng tăng áp lực nội sọ (nhức đầu, buồn nôn, nôn, giảm thị giác qua hoặc phù gai thị)
2 Không có dấu hiệu thần kinh khu trú, ngoại trừ liệt dây thần kinh vận động (thần kinh giạng)
3 Bệnh nhân tỉnh, tiếp xúc tốt
4 Hình ảnh CT/MRI bình thường không có bằng chứng huyết khối
5 Áp suất mở DNT >25 cmH2O và trong DNT, thành phần sinh hóa và tế bào bình thường
6 Không có lời giải thích nguyên nhân phù hợp cho tăng áp lực nội sọ

Trong một tổng quan năm 2002, Friedman và Jacobson đề xuất một bộ tiêu chí thay thế, bắt nguồn từ các tiêu chí của Smith. Bộ tiêu chí này yêu cầu chọc dò thắt lưng ở tư thế bệnh nhân nằm nghiêng, vì chọc dò thắt lưng khi ngồi thẳng có thể dẫn đến làm tăng áp lực nội sọ giả tạo. Friedman và Jacobson cũng không yêu cầu chụp cộng hưởng từ tĩnh mạch (MRV) cho tất cả bệnh nhân chỉ chỉ định cận lâm sàng này trong các trường hợp không điển hình. [7]

Điều trị

Mục tiêu trong điều trị TALNS vô căn là ngăn ngừa giảm thị lực gây mù lòa và kiểm soát triệu chứng. [8] TALNS vô căn được điều trị chủ yếu thông qua việc giảm áp lực DNT và TALNS vô căn có thể khỏi sau điều trị ban đầu, có thể tự thuyên giảm (mặc dù vẫn có thể tái phát) hoặc có thể kéo dài mạn tính. [4] [7]

Chọc dịch não tủy

Đang tiến hành chọc dịch não tủy. Vùng màu nâu là vùng được sát trùng bằng dung dịch chứa iod. Trong hình ảnh này, bệnh nhân đang ngồi thẳng. Tư thế giúp thực hiện quy trình dễ dàng hơn nhưng làm kết quả đo áp suất mở trở nên không đáng tin cậy.

Bước đầu tiên trong kiểm soát triệu chứng là dẫn lưu dịch não tủy bằng cách chọc dịch não tủy (hay chọc dò tủy sống). Chọc dịch não tủy giúp vừa chẩn đoán (chẳng hạn như tìm các marker viêm trong nhiễm trùng dịch não tủy), vừa điều trị. Trong một số trường hợp, thủ thuật này là đủ để kiểm soát các triệu chứng và không cần điều trị thêm. [6] [8]

Thủ thuật trên có thể làm lại nhiều lần nếu cần thiết, nhưng ở những trường hợp này thường phải điều trị bổ sung để kiểm soát các triệu chứng và duy trì thị lực. Việc chọc dịch não tủy lặp đi lặp lại khiến bệnh nhân đau đớn và làm tăng nguy cơ gây nhiễm trùng cột sống. [4] [6] Đôi khi cần phải chọc dò thắt lưng nhiều lần để kiểm soát áp lực nội sọ khẩn cấp nếu thị lực của bệnh nhân suy giảm nhanh chóng. [8]

Thuốc

Một trong những thuốc điều trị tăng áp lực nội sọ được chứng minh bằng các nghiên cứu chất lượng cao chính là acetazolamide (Diamox), hoạt động bằng cách ức chế enzyme carbonic anhydrase (CA) và làm giảm sản xuất DNT từ 6 đến 57%. Tác dụng phụ của thuốc là làm hạ kali máu, gây yếu cơ và ngứa ran ở các ngón tay. Acetazolamide không được sử dụng trong thời kỳ mang thai, vì thuốc đã được chứng minh là gây ra những bất thường về phôi thai trong các nghiên cứu trên động vật. Ngoài ra, ở người, thuốc đã được chứng minh là gây toan chuyển hóa cũng như làm rối loạn điện giải trong máu của trẻ sơ sinh. Thuốc lợi tiểu furosemide đôi khi được chỉ định để điều trị nếu bệnh nhân không dung nạp acetazolamide, nhưng thuốc này có thể ít tác dụng lên áp lực nội sọ. [4] [8]

Có thể sử dụng nhiều loại thuốc giảm đau để kiểm soát cơn đau đầu do tăng áp lực nội sọ. Ngoài các thuốc thông thường như paracetamol, thuốc chống trầm cảm amitriptyline liều thấp hoặc thuốc chống co giật topiramate đã được theo dõi trong nghiên cứu là có tác động bổ sung giúp giảm đau. [8]

Việc sử dụng glucocorticoid để làm giảm áp lực nội sọ còn đang gây tranh cãi. Corticoid có thể sử dụng trong trường hợp phù nề nặng. Nếu không có phù nề thì việc sử dụng corticoid không được khuyến khích. [4]

Đặt stent xoang tĩnh mạch

Hẹp xoang tĩnh mạch dẫn đến tăng áp lực tĩnh mạch dường như đóng một vai trò quan trọng liên quan đến tăng ICP và đặt stent xoang ngang có thể giải quyết tăng áp lực tĩnh mạch, dẫn đến cải thiện tái hấp thu CSF, giảm ICP, chữa khỏi phù nề và các triệu chứng khác của TALNS vô căn. [10]

Một stent kim loại tự mở rộng được triển khai vĩnh viễn trong xoang ngang chiếm ưu thế trên chỗ hẹp dưới gây mê toàn thân. Nói chung, mọi người được xuất viện vào ngày hôm sau. Mọi người cần điều trị kháng tiểu cầu kép trong thời gian tối đa 3 tháng sau thủ thuật và điều trị bằng aspirin trong tối đa 1 năm.

Trong một phân tích có hệ thống của 19 nghiên cứu với 207 trường hợp, đã có sự cải thiện 87% về tỷ lệ triệu chứng chung và tỷ lệ chữa khỏi bệnh phù gai thị là 90%. Biến chứng nặng chỉ xảy ra ở 3/207 người (1,4%). [16] Trong loạt đặt stent xoang ngang lớn nhất, tỷ lệ tái phát sau một lần đặt stent là 11%, cần phải đặt thêm stent. [10]

Phẫu thuật

Có hai quy trình phẫu thuật chính tồn tại trong điều trị TALNS vô căn: giải nén bao thần kinh thị giác, làm thủng và tạo shunt . Phẫu thuật thường chỉ được thực hiện nếu điều trị nội khoa không thành công hoặc không dung nạp được. [6] [8] Sự lựa chọn giữa hai thủ tục này phụ thuộc vào vấn đề chính trong TALNS vô căn. Không có quy trình nào là hoàn hảo: cả hai đều có thể gây ra các biến chứng đáng kể và cả hai cuối cùng có thể thất bại trong việc kiểm soát các triệu chứng. Không có thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng nào để hướng dẫn quyết định xem quy trình nào là tốt nhất. [8]

Cắt bao thần kinh thị giác là một phẫu thuật liên quan đến việc rạch một đường ở lớp lót mô liên kết của dây thần kinh thị giác ở phần phía sau mắt. Không hoàn toàn rõ ràng làm thế nào nó bảo vệ mắt khỏi áp lực tăng lên, nhưng nó có thể là kết quả của việc chuyển dịch CSF vào quỹ đạo hoặc tạo ra một vùng mô sẹo làm giảm áp suất. [8] Các tác động đối với áp lực nội sọ là khiêm tốn hơn. Hơn nữa, quy trình này có thể dẫn đến các biến chứng đáng kể, bao gồm mù lòa ở 1–2%. [4] Do đó, quy trình này được khuyến nghị chủ yếu ở những người có triệu chứng đau đầu hạn chế nhưng phù nề đáng kể hoặc thị lực bị đe dọa, hoặc ở những người đã trải qua điều trị không thành công bằng shunt hoặc có chống chỉ định phẫu thuật shunt. [8]

Phẫu thuật shunt, thường được thực hiện bởi các bác sĩ phẫu thuật thần kinh, liên quan đến việc tạo ra một ống dẫn mà CSF có thể được dẫn lưu vào một khoang cơ thể khác. Thủ tục ban đầu thường là một shunt thắt lưng phúc mạc (LP), nối khoang dưới nhện ở cột sống thắt lưng với khoang phúc mạc . [17] Nói chung, một van áp suất được bao gồm trong mạch để tránh thoát nước quá mức khi người đó đứng thẳng. LP shunt cung cấp cứu trợ lâu dài trong khoảng một nửa số trường hợp; những trường hợp khác yêu cầu sửa lại ống dẫn lưu, thường là nhiều hơn một lần—thường là do tắc nghẽn ống dẫn lưu. Nếu shunt vùng thắt lưng phúc mạc cần sửa đổi nhiều lần, có thể xem xét shunt não thất hoặc não thất. Các shunt này được chèn vào một trong các não thất bên của não, thường là bằng phẫu thuật lập thể, sau đó nối tương ứng với tâm nhĩ phải của tim hoặc khoang phúc mạc. [4] [8] Do nhu cầu sửa đổi các shunt não thất giảm đi, có thể quy trình này sẽ trở thành loại điều trị shunt đầu tiên. [4]

Người ta đã chứng minh rằng ở những người béo phì, phẫu thuật giảm béo (và đặc biệt là phẫu thuật bắc cầu dạ dày ) có thể giúp giải quyết tình trạng bệnh trên 95%. [4]

tiên lượng

Người ta không biết bao nhiêu phần trăm những người mắc TALNS vô căn sẽ tự thuyên giảm và bao nhiêu phần trăm sẽ phát triển thành bệnh mãn tính. [8]

TALNS vô căn thường không ảnh hưởng đến tuổi thọ. Các biến chứng chính của TALNS vô căn phát sinh từ chứng phù gai thị không được điều trị hoặc kháng trị. Trong nhiều trường hợp khác nhau, nguy cơ lâu dài về thị lực của một người bị ảnh hưởng đáng kể bởi TALNS vô căn được báo cáo là nằm trong khoảng từ 10 đến 25%. [4] [8]

Dịch tễ học

Số ca mắc bệnh TALNS vô căn mới mỗi năm được xác định rõ ràng bởi giới tính và trọng lượng cơ thể . Các số liệu ở nữ là ở phụ nữ từ 20 đến 45 tuổi. [4]

Trung bình, TALNS vô căn xảy ra ở khoảng một người trên 100.000 người và có thể xảy ra ở trẻ em và người lớn. Độ tuổi trung bình lúc chẩn đoán là 30. TALNS vô căn xảy ra chủ yếu ở phụ nữ, đặc biệt là ở độ tuổi từ 20 đến 45, những người có khả năng bị ảnh hưởng cao gấp 4 đến 8 lần so với nam giới. Thừa cânbéo phì khiến một người dễ mắc TALNS vô căn: những phụ nữ có trọng lượng cơ thể lý tưởng cao hơn mười phần trăm có nguy cơ mắc TALNS vô căn cao gấp 13lần và con số này tăng lên gấp 19lần ở những phụ nữ có trọng lượng cơ thể cao hơn 20% trọng lượng lý tưởng. Ở nam giới, mối quan hệ này cũng tồn tại, nhưng mức tăng chỉ gấp 5 lần ở những người trên 20% so với trọng lượng cơ thể lý tưởng của họ. [4]

Mặc dù có một số báo cáo về TALNS vô căn trong các gia đình, không có nguyên nhân di truyền nào được biết đến đối với TALNS vô căn. Mọi người thuộc mọi sắc tộc có thể phát triển TALNS vô căn. [4] Ở trẻ em, không có sự khác biệt về tỷ lệ mắc bệnh giữa nam và nữ. [6]

Từ cơ sở dữ liệu nhập viện quốc gia, có vẻ như nhu cầu can thiệp phẫu thuật thần kinh cho TALNS vô căn đã tăng lên rõ rệt trong khoảng thời gian từ 1988 đến 2002. Điều này ít nhất một phần là do tỷ lệ béo phì ngày càng gia tăng, [18] mặc dù một số nguyên nhân của sự gia tăng này có thể được giải thích là do sự phổ biến ngày càng tăng của việc đặt ống dẫn lưu đối với tình trạng thủng bao thần kinh thị giác. [8]

Lịch sử

Báo cáo đầu tiên về TALNS vô căn là của bác sĩ người Đức Heinrich Quincke, người đã mô tả bệnh này vào năm 1893 dưới tên viêm màng não huyết thanh [19] Thuật ngữ "pseudotumor cerebri" được giới thiệu vào năm 1904 bởi người đồng hương của ông là Max Nonne . [20] Nhiều trường hợp khác xuất hiện trong tài liệu sau đó; trong nhiều trường hợp, áp lực nội sọ tăng lên thực sự có thể là kết quả của các điều kiện cơ bản. [21] Ví dụ, não úng thủy tai do nhà thần kinh học Sir Charles Symonds ở London báo cáo có thể là kết quả của huyết khối xoang tĩnh mạch do nhiễm trùng tai giữa . [21] [22] Các tiêu chuẩn chẩn đoán cho TALNS vô căn được phát triển vào năm 1937 bởi bác sĩ giải phẫu thần kinh Walter Dandy ở Baltimore ; Dandy cũng giới thiệu phẫu thuật giải nén dưới thái dương để điều trị tình trạng này. [13] [21]

Thuật ngữ "lành tính" và "khối u giả" xuất phát từ thực tế là tăng áp lực nội sọ có thể liên quan đến khối u não . Do đó, những người không tìm thấy khối u được chẩn đoán là "giả u não" (một căn bệnh bắt chước khối u não). Căn bệnh này được đổi tên thành tăng áp lực nội sọ lành tính vào năm 1955 để phân biệt với tăng áp lực nội sọ do các bệnh đe dọa tính mạng (chẳng hạn như ung thư); [23] tuy nhiên, điều này cũng được cho là gây hiểu lầm vì bất kỳ bệnh nào có thể gây mù cho một người nào đó không nên được coi là lành tính, và do đó, tên này đã được sửa lại vào năm 1989 thành "tăng áp lực nội sọ vô căn (không xác định được nguyên nhân)". [24] [25]

Phẫu thuật shunt được giới thiệu vào năm 1949; ban đầu, shunt não thất được sử dụng. Năm 1971, kết quả tốt đã được báo cáo với shunt thắt lưng phúc mạc. Các báo cáo tiêu cực về shunt trong những năm 1980 đã dẫn đến một giai đoạn ngắn (1988–1993) trong đó tình trạng thủng dây thần kinh thị giác (ban đầu được mô tả trong một tình trạng không liên quan vào năm 1871) phổ biến hơn. Kể từ đó, shunt chủ yếu được khuyến nghị, thỉnh thoảng có những trường hợp ngoại lệ. [4] [8]

Tham kho

  1. ^ a b c d e f g h i “Idiopathic Intracranial Hypertension”. National Eye Institute (bằng tiếng Anh). tháng 4 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2017.
  2. ^ a b c d Wall, M (tháng 2 năm 2017). “Update on Idiopathic Intracranial Hypertension”. Neurologic Clinics. 35 (1): 45–57. doi:10.1016/j.ncl.2016.08.004. PMC 5125521. PMID 27886895.
  3. ^ Wakerley, BR; Tan, MH; Ting, EY (tháng 3 năm 2015). “Idiopathic intracranial hypertension”. Cephalalgia: An International Journal of Headache. 35 (3): 248–61. doi:10.1177/0333102414534329. PMID 24847166.
  4. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y Binder DK, Horton JC, Lawton MT, McDermott MW (tháng 3 năm 2004). “Idiopathic intracranial hypertension”. Neurosurgery. 54 (3): 538–51, discussion 551–2. doi:10.1227/01.NEU.0000109042.87246.3C. PMID 15028127.
  5. ^ Sismanis A (tháng 7 năm 1998). “Pulsatile tinnitus. A 15-year experience”. American Journal of Otology. 19 (4): 472–7. PMID 9661757.
  6. ^ a b c d e f g Soler D, Cox T, Bullock P, Calver DM, Robinson RO (tháng 1 năm 1998). “Diagnosis and management of benign intracranial hypertension”. Archives of Disease in Childhood. 78 (1): 89–94. doi:10.1136/adc.78.1.89. PMC 1717437. PMID 9534686.
  7. ^ a b c d e f g h Friedman DI, Jacobson DM (2002). “Diagnostic criteria for idiopathic intracranial hypertension”. Neurology. 59 (10): 1492–1495. doi:10.1212/01.wnl.0000029570.69134.1b. PMID 12455560.
  8. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Acheson JF (2006). “Idiopathic intracranial hypertension and visual function”. British Medical Bulletin. 79–80 (1): 233–44. CiteSeerX 10.1.1.131.9802. doi:10.1093/bmb/ldl019. PMID 17242038.
  9. ^ a b Farb, RI; Vanek, I; Scott, JN; Mikulis, DJ; Willinsky, RA; Tomlinson, G; terBrugge, KG (13 tháng 5 năm 2003). “Idiopathic intracranial hypertension: the prevalence and morphology of sinovenous stenosis”. Neurology. 60 (9): 1418–24. doi:10.1212/01.wnl.0000066683.34093.e2. PMID 12743224.
  10. ^ a b c d Ahmed, RM; Wilkinson, M; Parker, GD; Thurtell, MJ; Macdonald, J; McCluskey, PJ; Allan, R; Dunne, V; Hanlon, M; Owler, BK; Halmagyi, GM (tháng 9 năm 2011). “Transverse sinus stenting for idiopathic intracranial hypertension: a review of 52 patients and of model predictions”. AJNR. American Journal of Neuroradiology. 32 (8): 1408–14. doi:10.3174/ajnr.a2575. PMC 7964366. PMID 21799038.
  11. ^ “UOTW #5 - Ultrasound of the Week”. Ultrasound of the Week. 17 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2017.
  12. ^ Tan YJ, Choo C (2020). “Idiopathic Intracranial Hypertension – Characteristic MRI Features”. Headache. 60 (9): 267–8. doi:10.1111/head.13931. PMID 32757392.
  13. ^ a b c Dandy WE (tháng 10 năm 1937). “Intracranial pressure without brain tumor - diagnosis and treatment”. Annals of Surgery. 106 (4): 492–513. doi:10.1097/00000658-193710000-00002. PMC 1390605. PMID 17857053.
  14. ^ Smith JL (1985). “Whence pseudotumor cerebri?”. Journal of Clinical Neuroophthalmology. 5 (1): 55–6. PMID 3156890.
  15. ^ a b Digre KB, Corbett JJ (2001). “Idiopathic intracranial hypertension (pseudotumor cerebri): A reappraisal”. Neurologist. 7: 2–67. doi:10.1097/00127893-200107010-00002.
  16. ^ Teleb, MS; Cziep, ME; Lazzaro, MA; Gheith, A; Asif, K; Remler, B; Zaidat, OO (2013). “Idiopathic Intracranial Hypertension. A Systematic Analysis of Transverse Sinus Stenting”. Interventional Neurology. 2 (3): 132–143. doi:10.1159/000357503. PMC 4080637. PMID 24999351.
  17. ^ Yadav, YadR; Parihar, Vijay; Sinha, Mallika (1 tháng 1 năm 2010). “Lumbar peritoneal shunt”. Neurology India. 58 (2): 179–84. doi:10.4103/0028-3886.63778. PMID 20508332.
  18. ^ Curry WT, Butler WE, Barker FG (2005). “Rapidly rising incidence of cerebrospinal fluid shunting procedures for idiopathic intracranial hypertension in the United States, 1988-2002”. Neurosurgery. 57 (1): 97–108, discussion 97–108. doi:10.1227/01.NEU.0000163094.23923.E5. PMID 15987545.
  19. ^ Quincke HI (1893). “Meningitis serosa”. Sammlung Klinischer Vorträge. 67: 655.
  20. ^ Nonne M (1904). “Ueber Falle vom Symptomkomplex "Tumor Cerebri" mit Ausgang in Heilung (Pseudotumor Cerebri)”. Deutsche Zeitschrift für Nervenheilkunde (bằng tiếng Đức). 27 (3–4): 169–216. doi:10.1007/BF01667111.
  21. ^ a b c Johnston I (2001). “The historical development of the pseudotumor concept”. Neurosurgical Focus. 11 (2): 1–9. doi:10.3171/foc.2001.11.2.3. PMID 16602675.
  22. ^ Symonds CP (1931). “Otitic hydrocephalus”. Brain. 54: 55–71. doi:10.1093/brain/54.1.55. Also printed in Symonds CP (tháng 1 năm 1932). “Otitic hydrocephalus”. Br Med J. 1 (3705): 53–4. doi:10.1136/bmj.1.3705.53. PMC 2519971. PMID 20776602.
  23. ^ Foley J (1955). “Benign forms of intracranial hypertension; toxic and otitic hydrocephalus”. Brain. 78 (1): 1–41. doi:10.1093/brain/78.1.1. PMID 14378448.
  24. ^ Corbett JJ, Thompson HS (tháng 10 năm 1989). “The rational management of idiopathic intracranial hypertension”. Archives of Neurology. 46 (10): 1049–51. doi:10.1001/archneur.1989.00520460025008. PMID 2679506.
  25. ^ Bandyopadhyay S (2001). “Pseudotumor cerebri”. Archives of Neurology. 58 (10): 1699–701. doi:10.1001/archneur.58.10.1699. PMID 11594936.

Liên kết ngoài