Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Công giáo tại Campuchia”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Biên tập trang (nhỏ)
n →‎Thống kê và tổ chức địa phận của Giáo hội: Mở rộng bài viết theo bài en:Catholic Church in Cambodia của Wikipedia tiếng Anh.
Dòng 20: Dòng 20:
Vào năm 1934, nhà truyền giáo Tin Lành người Mỹ là [[Arthur L. Hammond]] đã dịch và xuất bản [[Tân Ước|Kinh Thánh Tân Ước]] bằng [[tiếng Khmer]] vào năm 1934 và đến năm 1940 thì hoàn thành bản dịch toàn bộ Kinh Thánh bằng tiếng Khmer. Tuy vậy phải đến năm 1954 thì toàn bộ bản văn Kinh Thánh bằng tiếng Khmer mới được cho xuất bản.<ref>{{cite thesis|last=Ravasco|first=Gerard G.|date=March 2004|title=Towards a Christian Pastoral Approach to Cambodian Culture|page=19|publisher=[[South African Theological Seminary]]|url=https://vtechworks.lib.vt.edu/bitstream/handle/10919/71585/313_1.pdf|access-date=January 4, 2021}}</ref>
Vào năm 1934, nhà truyền giáo Tin Lành người Mỹ là [[Arthur L. Hammond]] đã dịch và xuất bản [[Tân Ước|Kinh Thánh Tân Ước]] bằng [[tiếng Khmer]] vào năm 1934 và đến năm 1940 thì hoàn thành bản dịch toàn bộ Kinh Thánh bằng tiếng Khmer. Tuy vậy phải đến năm 1954 thì toàn bộ bản văn Kinh Thánh bằng tiếng Khmer mới được cho xuất bản.<ref>{{cite thesis|last=Ravasco|first=Gerard G.|date=March 2004|title=Towards a Christian Pastoral Approach to Cambodian Culture|page=19|publisher=[[South African Theological Seminary]]|url=https://vtechworks.lib.vt.edu/bitstream/handle/10919/71585/313_1.pdf|access-date=January 4, 2021}}</ref>


Linh mục bản xứ đầu tiên của Campuchia là cha [[Simon Chhem Yen]], thụ phong ngày 7 tháng 11 năm 1957. Các cha [[Phaolô Tep Im Sotha]] và [[Giuse Chhmar Salas]] lần lượt thụ phong vào năm 1959 và 1964. Theo số liệu thống kê của thành Vatican, số lượng giáo dân Công giáo tại Campuchia vào năm 1953 là 120.000 người (ước tính có 50.000 người Việt sống tại Campuchia là người Công giáo) và đạo Công giáo khi đó là tôn giáo có số lượng tín đồ lớn thứ hai tại Campuchia. Trước khi người Việt di cư về nước vào năm 1970 và 1971, có thể đã có tới 62.000 Kitô hữu sống ở Campuchia.
Linh mục bản xứ đầu tiên của Campuchia là cha [[Simon Chhem Yen]], thụ phong ngày 7 tháng 11 năm 1957.<ref name="BP">{{cite web|url=http://www.battambangparish.org/uploads/1/1/4/4/11444111/bio_of_bishop_paul_tep_im.pdf|title=Msgr. Paul Tep Im Sotha|author1=Descallar, Blas|author2=Ange, Mary|website=Our Lady of the Assumption Catholic Parish|access-date=4 January 2021}}</ref> Linh mục [[Phaolô Tep Im Sotha]] và linh mục [[Giuse Chhmar Salas]] lần lượt thụ phong vào năm 1959 và 1964. Theo số liệu thống kê của thành Vatican, số lượng giáo dân Công giáo tại Campuchia vào năm 1953 là 120.000 người (ước tính có 50.000 người Việt sống tại Campuchia là người Công giáo) và đạo Công giáo khi đó là tôn giáo có số lượng tín đồ lớn thứ hai tại Campuchia. Trước khi người Việt di cư về nước vào năm 1970 và 1971, có thể đã có tới 62.000 Kitô hữu sống ở Campuchia.


Một lượng lớn người Công giáo gốc Việt đã di cư về Việt Nam sau khi tướng [[Lon Nol]] trở thành Tổng thống [[Cộng hòa Khmer]] (chính quyền quân quản) vào năm 1970. Vào cùng năm đó, một đại chủng viện bị buộc đóng cửa vô thời hạn – tuy vậy người giáo dân vẫn được hưởng sự bảo hộ của nhà nước. Vào năm 1972, có lẽ có khoảng 20.000 Kitô hữu sinh sống tại Campuchia, hầu hết trong số họ là Công giáo. Nhiều người Công giáo còn sót lại ở Campuchia năm 1972 là người châu Âu, chủ yếu là người Pháp và người Campuchia có bố hoặc mẹ là người Pháp.
Một lượng lớn người Công giáo gốc Việt đã di cư về Việt Nam sau khi tướng [[Lon Nol]] trở thành Tổng thống [[Cộng hòa Khmer]] (chính quyền quân quản) vào năm 1970. Vào cùng năm đó, một đại chủng viện bị buộc đóng cửa vô thời hạn – tuy vậy người giáo dân vẫn được hưởng sự bảo hộ của nhà nước.<ref name="Hinh">{{cite book|url=https://books.google.com/books?id=VE8xDwAAQBAJ|title=Race, Gender, and Religion in the Vietnamese Diaspora: The New Chosen People|last=Hinh|first=Thien-Huong|date=2017|publisher=[[Springer Nature|Palgrave MacMillan]]|isbn=978-3-319-57168-3|page=110|access-date=6 July 2020}}</ref><ref name="CTT">{{cite journal|last=Senechal|first=Vincent Yves|title=Priestly Formation in the Asian Contexts: Application of the Church's Teachings to the Church and the Society in Cambodia|url=http://stt.catholic.ac.kr/DATA/STTBOOK/1436491703370.pdf|journal=Catholic Theology and Thought|issue=Special|pages=145–153|access-date=9 July 2020}}</ref> Đến năm 1972, có lẽ có khoảng 20.000 Kitô hữu sinh sống tại Campuchia, hầu hết trong số họ là Công giáo. Nhiều người Công giáo còn sót lại ở Campuchia năm 1972 là người châu Âu, chủ yếu là người Pháp và người Campuchia có bố hoặc mẹ là người Pháp.<ref>{{cite web|url=https://www.ucanews.org/directory/country/cambodia/9|title=Church in Cambodia|website=[[UCA News]]|publisher=ucanews.com|access-date=12 July 2020}}</ref> Tuy nhiên trong giai đoạn 1975–1979, chính quyền cộng sản của Khmer Đỏ đã gần như xóa sổ đạo Công giáo trong nước Campuchia, bức tử ⅔ số giáo dân Campuchia trong các trại lao động,<ref name="Hinh" /> mà một trong số đó là Đức Cha Giuse Chmar Salas; một bộ phận giáo dân khác thì bị hành quyết một cách bừa bãi, trong đó có linh mục [[Phaolô Tep Im Sotha]].

=== Giáo hội tái sinh ===
Vào năm 1989, Hiến pháp mới của [[Nhà nước Campuchia]] được thông qua và mở đường cho quyền tự do tôn giáo, dù vậy thì việc rao giảng đạo Kitô vẫn chưa được [[Hội đồng Bộ trưởng Campuchia|Hội đồng Bộ trưởng]] cho phép. Đến tháng 3 năm 1990, chính phủ Campuchia chấp thuận cho một nhóm giáo dân Công giáo mừng kính ngày Chúa Nhật Phục Sinh, đánh dấu lần đầu tiên trong vòng 15 năm người Công giáo được cử hành nghi thức thờ phượng cách công khai.<ref>{{cite news|author=Post Staff|date=25 March 2005|title=Vanquished in the 70s, Catholic Church still on the mend|work=[[The Phnom Penh Post]]|publisher=Post Media Co Ltd|url=https://www.phnompenhpost.com/national/vanquished-70s-catholic-church-still-mend|access-date=2 July 2020}}</ref>

Năm 1990, đã có nhiều nỗ lực nhằm tái thiết một chủng viện trong các trại tỵ nạn dành cho người Khmer tại [[Thái Lan]] và đến năm 1991, chủng viện ấy đã được khôi phục; lần đầu tiên trong lịch sử của Giáo hội Campuchia, các bài giảng được thực hiện hoàn toàn bằng [[tiếng Khmer]].<ref name="CTT" /> Năm 1992, chủng viện được di dời về thành phố [[Battambang|Bát-đăm-băng]] nhờ công lao của 4 chủng sinh cùng với linh mục Bênađô Dupraz, người đã thuê một căn nhà làm trụ sở của chủng viện. Khi ấy, các vật dụng cần thiết cho việc đào tạo chủng sinh còn khan hiếm trong thành phố, nên các thành viên phải nhờ linh mục Phanxicô Ponchaud và bà sơ Gilberte Masson mang các tư liệu giảng dạy được bỏ trong bao tải đến chủng viện cách kín nhiệm mà không báo cáo cho lực lượng biên phòng Thái Lan.<ref name="CTT" /> Cùng trong năm 1991, vào ngày 25 tháng 7, Đức Cha Yves Ramousse được bổ nhiệm làm [[Hạt Đại diện Tông tòa Phnôm Pênh|Đại diện Địa phận Phnôm Pênh]],<ref>{{cite web|url=https://www.ucanews.com/directory/previous/bishop-yves-ramousse/1893|title=Apostolic Vicariate of Phnom-Penh|website=[[UCA News]]|publisher=Union of Catholic Asian News Limited|access-date=4 January 2021}}</ref> rồi đến tháng 12 thì ngài được bổ nhiệm làm [[Hạt Phủ doãn Tông tòa Battambang|Giám quản tông tòa Bát-đăm-băng]] dưới triều Đức Thánh Cha [[Gioan Phaolô II]].<ref name="CTT" />

Đức Cha Ramousse kể lại rằng vào năm 1993, cha Dupraz đã mua một mảnh đất thuộc giáo xứ Bát-đăm-băng trước năm 1970 và là linh mục duy nhất chịu trách nhiệm gầy dựng lại Hội thánh Công giáo trên một khu vực có diện tích bằng ⅓ nước Campuchia.<ref name="CTT" /> Các chủng sinh dường như đã trở thành những vị đại diện của cha Dupraz trong quá trình rèn luyện, sau này họ được đưa đến các vùng đất xa xôi như [[Saophoan|Xê-ri Xao-phuân]] và [[Siêm Riệp|Xiêm-riệp]] để làm báo cáo tình hình thực tế.<ref name="CTT" />


== Thống kê và tổ chức địa phận của Giáo hội ==
== Thống kê và tổ chức địa phận của Giáo hội ==
Dòng 29: Dòng 36:
Giáo hội Công giáo tại Campuchia không có giáo phận nào nhưng có một [[hạt đại diện tông tòa]] (do giám mục quản nhiệm) và hai [[Hạt Phủ doãn Tông tòa|hạt phủ doãn tông tòa]] (do linh mục quản nhiệm).
Giáo hội Công giáo tại Campuchia không có giáo phận nào nhưng có một [[hạt đại diện tông tòa]] (do giám mục quản nhiệm) và hai [[Hạt Phủ doãn Tông tòa|hạt phủ doãn tông tòa]] (do linh mục quản nhiệm).
* [[Hạt Đại diện Tông tòa Phnôm Pênh]]
* [[Hạt Đại diện Tông tòa Phnôm Pênh]]
* [[Hạt Phủ doãn Tông tòa Battambang|Hạt Phủ doãn Tông tòa Báttambăng]]
* [[Hạt Phủ doãn Tông tòa Battambang|Hạt Phủ doãn Tông tòa Bátđămbăng]]
* [[Hạt Phủ doãn Tông tòa Kampong Cham|Hạt Phủ doãn Tông tòa Côngpông Chàm]]
* [[Hạt Phủ doãn Tông tòa Kampong Cham|Hạt Phủ doãn Tông tòa Campông Chàm]]


== Xem thêm ==
== Xem thêm ==

Phiên bản lúc 03:58, ngày 7 tháng 3 năm 2024

Giáo hội Công giáo tại Campuchia là một phần của Giáo hội Công giáo hoàn vũ, đặt dưới sự lãnh đạo về mặt tinh thần của Giáo hoàng. Trong suốt chiều dài lịch sử của Giáo hội Công giáo Campuchia, tỷ trọng giáo dân trong tổng dân số Campuchia là rất nhỏ và phần lớn trong số đó là người Việt; vào năm 2005, có khoảng hai phần ba tổng số giáo dân tại Campuchia là người Việt.[1][2]

Giáo hội Campuchia trải qua một giai đoạn phát triển chậm vào thế kỷ 20, với vị linh mục bản xứ đầu tiên được truyền chức vào năm 1957 và trải qua cuộc đàn áp và cấm đạo tàn khốc của chính quyền cộng sản Khmer Đỏ – điều gần như đã khiến cho Giáo hội bị xóa sổ. Từ đầu thập niên 1990, với sự kiện tái lập một đại chủng viện cùng thánh lễ truyền chức cho vị linh mục bản xứ đầu tiên trong hàng thập kỷ, Giáo hội Campuchia dần dần vực dậy và phát triển.

Lịch sử

Nhà thờ thánh Phaolô tại phường Chông K'niêh, thành phố Xiêm Riệp là một nhà thờ nổi

Thời kỳ sơ khai

Sứ mệnh rao giảng tin mừng Kitô giáo đầu tiên được biết đến tại Campuchia được thực hiện từ năm 1555 đến năm 1556 bởi cha Gaspar da Cruz, một linh mục thuộc dòng Anh Em Giảng Thuyết người Bồ Đào Nha. Theo tường thuật của ông, kế hoạch truyền giáo khó khăn của ông đã bị thất bại hoàn toàn; ông nhận thấy vị vua trị vì đất Campuchia là một người "Đại ngã" và cả các bề tôi của ngài cũng là những người "Đại ngã". Cha Gaspar cũng phát hiện ra rằng "các tín đồ Đại ngã là những người khó bị thuyết phục cải đạo nhất" cũng như việc người dân không dám cải đạo nếu không được sự cho phép của nhà vua. Cha rời bỏ xứ Campuchia trong sự thất vọng và cho rằng ngài "chưa làm phép rửa tội cho một người lương nào thêm kể từ khi người duy nhất được rửa tội chết".[3] Mặc dù Campuchia bị thực dân Pháp đô hộ trong thế kỷ 19, đạo Kitô không có nhiều tác động đối với quốc gia này.

Giáo hội phát triển chậm và nguy cơ bị xóa sổ

Vào năm 1934, nhà truyền giáo Tin Lành người Mỹ là Arthur L. Hammond đã dịch và xuất bản Kinh Thánh Tân Ước bằng tiếng Khmer vào năm 1934 và đến năm 1940 thì hoàn thành bản dịch toàn bộ Kinh Thánh bằng tiếng Khmer. Tuy vậy phải đến năm 1954 thì toàn bộ bản văn Kinh Thánh bằng tiếng Khmer mới được cho xuất bản.[4]

Linh mục bản xứ đầu tiên của Campuchia là cha Simon Chhem Yen, thụ phong ngày 7 tháng 11 năm 1957.[5] Linh mục Phaolô Tep Im Sotha và linh mục Giuse Chhmar Salas lần lượt thụ phong vào năm 1959 và 1964. Theo số liệu thống kê của thành Vatican, số lượng giáo dân Công giáo tại Campuchia vào năm 1953 là 120.000 người (ước tính có 50.000 người Việt sống tại Campuchia là người Công giáo) và đạo Công giáo khi đó là tôn giáo có số lượng tín đồ lớn thứ hai tại Campuchia. Trước khi người Việt di cư về nước vào năm 1970 và 1971, có thể đã có tới 62.000 Kitô hữu sống ở Campuchia.

Một lượng lớn người Công giáo gốc Việt đã di cư về Việt Nam sau khi tướng Lon Nol trở thành Tổng thống Cộng hòa Khmer (chính quyền quân quản) vào năm 1970. Vào cùng năm đó, một đại chủng viện bị buộc đóng cửa vô thời hạn – tuy vậy người giáo dân vẫn được hưởng sự bảo hộ của nhà nước.[6][7] Đến năm 1972, có lẽ có khoảng 20.000 Kitô hữu sinh sống tại Campuchia, hầu hết trong số họ là Công giáo. Nhiều người Công giáo còn sót lại ở Campuchia năm 1972 là người châu Âu, chủ yếu là người Pháp và người Campuchia có bố hoặc mẹ là người Pháp.[8] Tuy nhiên trong giai đoạn 1975–1979, chính quyền cộng sản của Khmer Đỏ đã gần như xóa sổ đạo Công giáo trong nước Campuchia, bức tử ⅔ số giáo dân Campuchia trong các trại lao động,[6] mà một trong số đó là Đức Cha Giuse Chmar Salas; một bộ phận giáo dân khác thì bị hành quyết một cách bừa bãi, trong đó có linh mục Phaolô Tep Im Sotha.

Giáo hội tái sinh

Vào năm 1989, Hiến pháp mới của Nhà nước Campuchia được thông qua và mở đường cho quyền tự do tôn giáo, dù vậy thì việc rao giảng đạo Kitô vẫn chưa được Hội đồng Bộ trưởng cho phép. Đến tháng 3 năm 1990, chính phủ Campuchia chấp thuận cho một nhóm giáo dân Công giáo mừng kính ngày Chúa Nhật Phục Sinh, đánh dấu lần đầu tiên trong vòng 15 năm người Công giáo được cử hành nghi thức thờ phượng cách công khai.[9]

Năm 1990, đã có nhiều nỗ lực nhằm tái thiết một chủng viện trong các trại tỵ nạn dành cho người Khmer tại Thái Lan và đến năm 1991, chủng viện ấy đã được khôi phục; lần đầu tiên trong lịch sử của Giáo hội Campuchia, các bài giảng được thực hiện hoàn toàn bằng tiếng Khmer.[7] Năm 1992, chủng viện được di dời về thành phố Bát-đăm-băng nhờ công lao của 4 chủng sinh cùng với linh mục Bênađô Dupraz, người đã thuê một căn nhà làm trụ sở của chủng viện. Khi ấy, các vật dụng cần thiết cho việc đào tạo chủng sinh còn khan hiếm trong thành phố, nên các thành viên phải nhờ linh mục Phanxicô Ponchaud và bà sơ Gilberte Masson mang các tư liệu giảng dạy được bỏ trong bao tải đến chủng viện cách kín nhiệm mà không báo cáo cho lực lượng biên phòng Thái Lan.[7] Cùng trong năm 1991, vào ngày 25 tháng 7, Đức Cha Yves Ramousse được bổ nhiệm làm Đại diện Địa phận Phnôm Pênh,[10] rồi đến tháng 12 thì ngài được bổ nhiệm làm Giám quản tông tòa Bát-đăm-băng dưới triều Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II.[7]

Đức Cha Ramousse kể lại rằng vào năm 1993, cha Dupraz đã mua một mảnh đất thuộc giáo xứ Bát-đăm-băng trước năm 1970 và là linh mục duy nhất chịu trách nhiệm gầy dựng lại Hội thánh Công giáo trên một khu vực có diện tích bằng ⅓ nước Campuchia.[7] Các chủng sinh dường như đã trở thành những vị đại diện của cha Dupraz trong quá trình rèn luyện, sau này họ được đưa đến các vùng đất xa xôi như Xê-ri Xao-phuânXiêm-riệp để làm báo cáo tình hình thực tế.[7]

Thống kê và tổ chức địa phận của Giáo hội

Số liệu ước tính về số người Công giáo tại Campuchia có sự thay đổi qua các năm. Vào năm 1994, hãng thông tấn UCA News cho biết có khoảng 25.000 người Công giáo sống tại Campuchia. Sau đó vào năm 2005, cha chánh xứ Phnôm Pênh là Bob Piche cho rằng số lượng giáo hữu Công giáo rơi vào khoảng 25.000, ám chỉ rằng không có thêm tín hữu mới nào gia nhập Hội thánh. Theo số liệu của Ramousse vào năm 2015, có khoảng 20.000 người Công giáo sinh sống tại Campuchia, chiếm khoảng 0,15% tổng dân số. Tuy vậy, Peter Ford của tờ The Diplomat lại cho rằng con số này là 75.000 vào năm 2017.

Giáo hội Công giáo tại Campuchia không có giáo phận nào nhưng có một hạt đại diện tông tòa (do giám mục quản nhiệm) và hai hạt phủ doãn tông tòa (do linh mục quản nhiệm).

Xem thêm

Tham khảo

  1. ^ Post Staff (25 tháng 3 năm 2005). “Vanquished in the 70s, Catholic Church still on the mend” [Bị đàn áp từ thập niên 70, Giáo hội Công giáo Campuchia hiện đang trên đà hồi phục]. The Phnom Penh Post (bằng tiếng Anh). Post Media Co. Ltd. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2020.
  2. ^ Ford, Peter (14 tháng 3 năm 2017). “Cambodia, Catholicism, and Cauliflower” [Campuchia, Đạo Công giáo và Súp lơ]. The Diplomat (bằng tiếng Anh). huyện Kien Svay, Campuchia: Diplomat Media Inc. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2020.
  3. ^ Boxer, Charles Ralph; Pereira, Galeote; Cruz, Gaspar da; Rada, Martín de (1953), South China in the sixteenth century: being the narratives of Galeote Pereira, Fr. Gaspar da Cruz, O.P. (and) Fr. Martín de Rada, O.E.S.A. (1550–1575), Issue 106 of Works issued by the Hakluyt Society, Printed for the Hakluyt Society, tr. lix, 59–63
  4. ^ Ravasco, Gerard G. (tháng 3 năm 2004). Towards a Christian Pastoral Approach to Cambodian Culture (PDF) (Luận văn). South African Theological Seminary. tr. 19. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2021.
  5. ^ Descallar, Blas; Ange, Mary. “Msgr. Paul Tep Im Sotha” (PDF). Our Lady of the Assumption Catholic Parish. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2021.
  6. ^ a b Hinh, Thien-Huong (2017). Race, Gender, and Religion in the Vietnamese Diaspora: The New Chosen People. Palgrave MacMillan. tr. 110. ISBN 978-3-319-57168-3. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2020.
  7. ^ a b c d e f Senechal, Vincent Yves. “Priestly Formation in the Asian Contexts: Application of the Church's Teachings to the Church and the Society in Cambodia” (PDF). Catholic Theology and Thought (Special): 145–153. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2020.
  8. ^ “Church in Cambodia”. UCA News. ucanews.com. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2020.
  9. ^ Post Staff (25 tháng 3 năm 2005). “Vanquished in the 70s, Catholic Church still on the mend”. The Phnom Penh Post. Post Media Co Ltd. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2020.
  10. ^ “Apostolic Vicariate of Phnom-Penh”. UCA News. Union of Catholic Asian News Limited. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2021.