Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hãng phim Mỹ Vân”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Thêm bản mẫu Độ nổi bật hoặc Afd
Dòng 1: Dòng 1:
{{đang sửa}}
{{đang sửa}}
{{độ nổi bật|công ty}}
'''My-Van Films''' là [[nhãn hiệu]] một cơ sở chế tác phát hành [[điện ảnh]] độc lập [[Mỹ]], tồn tại từ 1975 tới nay.
'''My-Van Films''' là [[nhãn hiệu]] một cơ sở chế tác phát hành [[điện ảnh]] độc lập [[Mỹ]], tồn tại từ 1975 tới nay.
==Lịch sử==
==Lịch sử==

Phiên bản lúc 21:59, ngày 4 tháng 3 năm 2021

My-Van Filmsnhãn hiệu một cơ sở chế tác phát hành điện ảnh độc lập Mỹ, tồn tại từ 1975 tới nay.

Lịch sử

Tiền thân My-Van Films là hãng phim Mỹ Vân có trụ sở tại Việt Nam từ 1952 tới 1975, là trung tâm điện ảnh tư lập hoàn toàn do người Việt Nam làm chủ.

1952 - 1954

Cuối thập niên 1940, tại Đông Dương vẫn chưa có đội ngũ tài tử hát bóng chuyên nghiệp, cũng chưa hình thành bất cứ cơ sở chế tác và in tráng điện ảnh quy mô lớn ngoài những cơ quan nhỏ chuyên làm phim tài liệu trực thuộc CEFEO. Nhưng ngay cả CEFEO, mỗi khi cần thực hiện một cuốn phim truyện phải rất vất vả thuê tài tửPháp sang hoặc tận dụng tại chỗ các tài tử cải lương, tân nhạc, thoại kịch người Việt, thậm chí mời cả nhạc công, kí giả khi quá gấp.

Vì thế, sang đầu thập niên 1950, khi trị an đã tương đối vãn hồi, các gánh hát lớn bắt đầu đua nhau lập hãng phim để bắt kịp xu thế coi hát bóng ở chốn thị thành. Nhưng kì thực, những đoàn ca nhạc này tuy nhân sự lớn nhưng hoàn toàn thiếu kinh nghiệm điện ảnh, phải thuê kĩ sư từ Hương Cảng, Phi Luật Tân và cả Pháp sang thực hiện, sau đó lại gửi phim ra ngoại quốc in tráng. Bởi vậy, chất lượng phim thường rất hạn chế, đa số chiếu vài buổi là cụt vốn, không cạnh tranh được với các xuất phẩm điện ảnh HollywoodHương Cảng. Có những gánh hát phải rã đám vì không bù lỗ nổi, băng cũng phải đem hủy.

Năm 1952, doanh gia Lưu Trạch Hưng xin cấp phép thành lập tại Hà Nội Việt-nam Điện-ảnh Công-ti (gọi tắt Việt-Ảnh), chủ trương nhập cảng máy móc và đào tạo nhân lực để chế tác những cuốn phim nghiêm túc. Nhưng do không sẵn trong tay đội ngũ tài tử như các gánh hát, ông quyết định tuyển mộ giới học sinh rồi tiến hành dạy kĩ năng diễn xuất. Năm đó, Việt Ảnh tiến hành lancet đôi đào Lan Hương và Thanh Hương (bấy giờ cùng theo học trường Đồng Khánh) trên mặt báo để xuất xưởng cuốn phim truyện tiên phong Cô gái Việt. Một phim ca nhạc kết hợp thời trang kiểu Skirts Ahoy!, với nội dung trẻ trung đánh vào thị hiếu giới học sinh Hà thành, gây nên một không khí hoàn toàn tươi mát giữa thời lửa loạn.

Sang năm 1953 lại nổi lên hãng Việt Films của doanh gia Hà Quang Định và phu nhân Ái Liên, một cơ sở điện ảnh có sẵn đội ngũ tài tử cải lươngtân nhạc ăn khách nhất nhì miền Bắc. Ba hãng Việt Ảnh, Việt Films và Kim Chung tạo nên cuộc cạnh tranh vô cùng hăm hở trên màn ảnh đại vĩ tuyến và cả mặt báo khắp ba miền, góp phần làm phong phú sinh hoạt văn nghệ miền Bắc vốn đang cần thiết sự cách tân.

Tuy nhiên, chỉ chưa đầy năm, Sự kiện Điện Biên gây lại nguy cơ xáo động chính trị Việt Nam. Ngày 05 tháng 05 năm 1954, ông Lưu Trạch Hưng đóng cửa trụ sở Việt Ảnh Hà Nội, đưa gia đình di cư vào Nam. Cuối năm đó, hãng Việt Films xóa bảng hiệu, chỉ giữ lại một phần gánh hát. Còn hãng Kim Chung cũng ngưng làm phim, để một đoàn nhỏ tại Hà Nội, còn nhân sự chủ yếu di cư vào Nam hoạt động cải lương thuần túy.

1954 - 1975

Tại quê hương mới miền Nam, giám đốc Lưu Trạch Hưng khai trương biển hiệu Mỹ-Vân Điện-ảnh Công-ti (thường gọi Việt-Ảnh Mỹ-Vân) tại số 06 Ngô Thời Nhiệm, quận 3, Sài Gòn. Nhãn hiệu đặt lại theo nhũ danhLưu Trạch Hưng.

Trong các năm 1955-6, hãng Mỹ Vân hợp tác với các nghệ sĩ Nguyễn Thành Châu, Túy Hoa, Anh Lân... sản xuất phim ca nhạc Quan Âm Thị Kính, Tình quê ý nhạc, đạt thành tựu ấn tượng về doanh thu, trở thành cơ sở điện ảnh đáng tin cậy và có quy mô lớn nhất miền Nam. Vị thế này chỉ phần nào bớt đi khi Trung tâm Quốc gia Điện ảnh hình thành (1959).

Tham khảo

Liên kết