Hoại tử thượng bì nhiễm độc

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Toxic epidermal necrolysis
Toxic epidermal necrolysis
Khoa/NgànhDermatology
Biến chứngDehydration, sepsis, pneumonia, multiple organ failure.[1]
Yếu tố nguy cơHIV/AIDS, systemic lupus erythematosus, genetics[1]
Chẩn đoán phân biệtChickenpox, staphylococcal epidermolysis, staphylococcal scalded skin syndrome, autoimmune bullous disease[2]
Dịch tễ1–2 per million per year (together with SJS)[1]

Hoại tử thượng bì nhiễm độc (TEN) là một loại phản ứng da nghiêm trọng. Cùng với hội chứng Stevens–Johnson (SJS) nó tạo thành nhóm bệnh, với TEN nghiêm trọng hơn. Triệu chứng sớm bao gồm sốt và triệu chứng giống cúm. Một vài ngày sau, da bắt đầu hình thành bọng và bong hình thành những vùng đỏ da chảy máu đau đớn. Niêm mạc, chẳng hạn như miệng, cũng có thể liên quan. Biến chứng gồm mất nước, nhiễm trùng huyết, viêm phổi, và suy đa tạng.

Nguyên nhân phổ biến nhất là một số loại thuốc như lamotrigine, carbamazepine, allopurinol, sulfonamide antibiotics, và nevirapine. Nguyên nhân khác có thể bao gồm nhiễm trùng như Mycoplasma pneumoniaecytomegalovirus hoặc nguyên nhân có thể vẫn còn chưa rõ.[2][4] Yếu tố nguy cơ bao gồm HIV/AIDSlupus ban đỏ hệ thống. Chẩn đoán dựa trên sinh thiết da và biểu hiện hơn 30% da.[2] TEN là một loại phản ứng da nghiêm trọng (SCARs), cùng với SJS, SJS/ /TEN và hội chứng phản ứng bạch cầu ái toan với thuốc hệ thống.[5] Bệnh được gọi là SJS khi ít hơn 10% của da biểu hiện và thể trung gian với 10 đến 30% biểu hiện.[2] Hồng ban đa dạng (EM) thường được coi là một bệnh lý riêng biệt.[6]

Điều trị tại bệnh viện ở đơn vị bỏng hoặc đơn vị hồi sức tích cực.[2][7] Mục tiêu bao gồm loại bỏ nguyên nhân, giảm đau, và thuốc kháng sinh.[2][4] Thuốc kháng sinh, kháng thể đường tĩnh mạch, và corticosteroid cũng có thể được sử dụng.[2][4] Phương pháp điều trị không thường thay đổi quá trình của bệnh.[2] Cùng với SJS nó ảnh hưởng đến 1 - 2 triệu người mỗi năm. Nó là thường thấy ở phụ nữ hơn nam giới.[2] Điển hình ở bệnh nhân trên 40 tuổi.[2] Da thường liền sau hơn hai đến ba tuần, tuy nhiên, phục hồi có thể mất hàng tháng và nhất là để lại tổn thương mạn tính.[2][4]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e “Stevens-Johnson syndrome/toxic epidermal necrolysis”. Genetics Home Reference (bằng tiếng Anh). tháng 7 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2017.
  2. ^ a b c d e f g h i j k l m n o “Orphanet: Toxic epidermal necrolysis”. Orphanet (bằng tiếng Anh). tháng 11 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2017. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “Orph2008” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  3. ^ Rapini, Ronald P.; Bolognia, Jean L.; Jorizzo, Joseph L. (2007). Dermatology: 2-Volume Set. St. Louis: Mosby. ISBN 1-4160-2999-0.
  4. ^ a b c d “Stevens-Johnson syndrome”. GARD. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2016.
  5. ^ Adler NR, Aung AK, Ergen EN, Trubiano J, Goh MS, Phillips EJ (2017). “Recent advances in the understanding of severe cutaneous adverse reactions”. The British Journal of Dermatology. 177 (5): 1234–1247. doi:10.1111/bjd.15423. PMID 28256714.
  6. ^ Schwartz, RA; McDonough, PH; Lee, BW (tháng 8 năm 2013). “Toxic epidermal necrolysis: Part I. Introduction, history, classification, clinical features, systemic manifestations, etiology, and immunopathogenesis”. Journal of the American Academy of Dermatology. 69 (2): 173.e1-13, quiz 185–6. doi:10.1016/j.jaad.2013.05.003. PMID 23866878.
  7. ^ Schwartz, RA; McDonough, PH; Lee, BW (tháng 8 năm 2013). “Toxic epidermal necrolysis: Part II. Prognosis, sequelae, diagnosis, differential diagnosis, prevention, and treatment”. Journal of the American Academy of Dermatology. 69 (2): 187.e1-16, quiz 203–4. doi:10.1016/j.jaad.2013.05.002. PMID 23866879.