Lý Huy

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lý Huy
Thông tin cá nhân
Sinh30 tháng 5, 1969 (54 tuổi)
Quế Lâm, Quảng Tây, Trung Quốc
Nghề nghiệpVõ sĩ, vận động viên, diễn viên
Thể thao
Môn thể thaoWushu
Nội dungTrường quyền, Thái cực quyền
ĐộiĐội Wushu Hồng Kông
Huấn luyện bởiYu Liguong, Meng Huifeng
Là huấn luyện củaMạc Uyển Huỳnh
Thành tích huy chương
Wushu nữ
Đại diện cho  Hồng Kông
Giải vô địch thế giới
Huy chương vàng – vị trí thứ nhất 1993 Kuala Lumpur Trường quyền
Huy chương vàng – vị trí thứ nhất 1993 Kuala Lumpur Côn thuật
Huy chương bạc – vị trí thứ hai 1991 Bắc Kinh Côn thuật
Huy chương đồng – vị trí thứ ba 1991 Bắc Kinh Trường quyền
Huy chương đồng – vị trí thứ ba 1991 Bắc Kinh Thương thuật
Huy chương đồng – vị trí thứ ba 1993 Kuala Lumpur Kiếm thuật
Giải vô địch châu Á
Huy chương vàng – vị trí thứ nhất 1992 Seoul Côn thuật
Huy chương bạc – vị trí thứ hai 1992 Seoul Trường quyền
Huy chương bạc – vị trí thứ hai 1992 Seoul Kiếm thuật
Huy chương bạc – vị trí thứ hai 1992 Seoul All-around (CQ)
Đại hội thể thao Đông Á
Huy chương đồng – vị trí thứ ba 1993 Thượng Hải Trường quyền
Đại diện cho  Hồng Kông
Giải vô địch thế giới
Huy chương vàng – vị trí thứ nhất 1999 Hồng Kông Thái cực quyền
Huy chương vàng – vị trí thứ nhất 2001 Yerevan Thái cực quyền
Huy chương bạc – vị trí thứ hai 1999 Hồng Kông Thái cực quyền
Đại hội thể thao Châu Á
Huy chương bạc – vị trí thứ hai 2002 Busan Thái cực quyền
Giải vô địch châu Á
Huy chương vàng – vị trí thứ nhất 2000 Hà Nội Thái cực quyền
Huy chương vàng – vị trí thứ nhất 2000 Hà Nội All-around (TJQ)
Đại hội thể thao Đông Á
Huy chương vàng – vị trí thứ nhất 2001 Osaka Thái cực quyền

Lý Huy (phồn thể: 李暉; giản thể: 李晖; bính âm: Lǐ huī, tên tiếng Anh: Li Fai, sinh ngày 30 tháng 5 năm 1969) là một vận động viên wushu biểu diễn chuyên nghiệp đã nghỉ hưu tại Hồng Kông. Cô từng bốn lần vô địch thế giới và từng đoạt huy chương tại Đại hội Thể thao châu ÁĐại hội Thể thao Đông Á.

Đầu đời[sửa | sửa mã nguồn]

Cô sinh ra ở Quế Lâm, Quảng Tây.[1] Khi còn nhỏ, cô học Kinh kịch vào lúc chuyển đến Hồng Kông năm 15 tuổi, cô được thuê làm vũ công tại một ngôi làng gần đó.[2] Trong thời gian làm việc ở đó, cô đã được đạo diễn điện ảnh Hồng Kông Trình Tiểu Đông phát hiện và được tuyển dụng đóng thế các nữ diễn viên. Cuối cùng, cô bắt đầu quan tâm đến môn thể thao wushu đương đại và bắt đầu tập luyện vào năm 1989.[2]

Sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Sự nghiệp thi đấu ban đầu: 1989–1994[sửa | sửa mã nguồn]

Lần ra mắt quốc tế đầu tiên của cô là tại Đại hội thể thao châu Á 1990, nơi cô kết thúc ở vị trí thứ tư trong sự kiện này.[3] Trong giải vô địch Wushu thế giới năm 1991 tại Bắc Kinh, Trung Quốc, cô đã giành được huy chương bạc ở côn thuật và huy chương đồng ở môn trường quyền và thương thuật.[4][5] Năm 1992 tại Giải vô địch Wushu châu Á ở Seoul, Hàn Quốc, cô đã giành được huy chương vàng ở môn côn thuật, và huy chương bạc ở môn kiếm thuật và trường quyền, do đó cô đã giành được huy chương bạc toàn năng trường quyền.[6]

Cô đã giành được huy chương đồng trong môn trường quyền nữ tại Đại hội thể thao Đông Á năm 1993 ở Thượng Hải, Trung Quốc.[7] Sau sự kiện này, cô thông báo rằng cô dự định sẽ từ giã môn wushu sau cuộc thi tiếp theo, Giải vô địch Wushu Thế giới năm 1993 tại Kuala Lumpur, Malaysia, để tập trung vào sự nghiệp diễn viên đóng thế.[8] Vài tháng sau tại WWC 1993, cô trở thành nhà vô địch thế giới ở môn trường quyền và côn thuật.[9][10] Cô cũng đã giành được một huy chương đồng trong môn kiếm thuật. Với những chiến thắng này, cô quyết định tiếp tục sự nghiệp wushu thi đấu của mình.

Vào tháng 5 năm 1994, cô phát bệnh nặng nhưng đã hồi phục kịp thời và đạt thành tích cực tốt trong các giải đấu của Hồng Kông trong Đại hội Thể thao Châu Á 1994.[11] Ngay sau đó, cô phát hiện ra mình đang mang thai và vì vậy cô đã bỏ thi đấu tại Á vận hội.[12][13]

Trở lại thi đấu Wushu: 1998–2002[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1998, cô trở lại tập luyện wushu và quyết định chuyển sang tập Thái Cực Quyền.[13] Cô đã tập luyện âm thầm trong một năm cho đến tháng 8 năm 1999, khi huấn luyện viên trưởng của Đội Wushu Hồng Kông Yu Liguang tuyên bố cô sẽ trở lại thi đấu.[14] Đại diện cho Đặc khu hành chính Hồng Kông lần đầu tiên, cô xuất hiện tại Giải vô địch Wushu Thế giới năm 1999 ở Hồng Kông và trở thành nhà vô địch thế giới đầu tiên ở môn Thái Cực Quyền và cũng giành được huy chương bạc ở môn Thái Cực Quyền.[12][15][16] Hai năm sau, tại Đại hội Thể thao Đông Á 2001 ở Osaka, Nhật Bản, cô là người cầm cờ và giành huy chương vàng Thái cực quyền nữ.[17][18] Sau đó, cô thi đấu tại Giải vô địch Wushu Thế giới năm 2001 tại Yerevan, Armenia, và là nhà vô địch thế giới ở môn thái cực quyền.[19] Trước khi tham dự Đại hội Thể thao châu Á 2002, cuộc thi cuối cùng của cô, cô đã được ghi nhận là một trong những người giành huy chương vàng tiềm năng và quan trọng cho Hồng Kông.[20][21] Cô đã giành được huy chương bạc trong Thái cực quyền nữ và sau đó tuyên bố giải nghệ.[22][23]

Sau khi giải nghệ[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2000, cô mở trường dạy học wushu tên "Trung tâm Wushu Lý Huy". Sau khi giải nghệ thi đấu wushu vào năm 2002, cô tích cực quảng bá wushu khắp Hồng Kông thông qua việc giảng dạy và biểu diễn. Năm 2003, trong đợt bùng phát dịch SARS 2002–2004, cô đã dạy thái cực quyền trên truyền hình Hồng Kông.[1] Năm 2004, Lý Huy biểu diễn cùng Bobby McFerrin tại Hồng Kông [24][25] vào vào năm 2006, cô được chính quyền Đặc khu hành chính Hồng Kông trao tặng Huân chương Danh dự trong thể thao. [26] Năm 2012, cô dạy Thái Cực Quyền cho Tổng thống Ireland, Michael D. Higgins và Đệ nhất phu nhân Sabina Higgins tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới.[27][28] Cùng năm đó, cô biểu diễn trong Lễ kỷ niệm Kim cương của Elizabeth II cũng như trong lễ khai mạc Thế vận hội Mùa hè 2012.[28]

Năm 2018, một trong những học trò của Lý là Mạc Uyển Huỳnh, đã giành được huy chương bạc Thái cực quyền nữ tại Đại hội thể thao châu Á 2018.[29]

Đời tư[sửa | sửa mã nguồn]

Lý Huy xuất thân từ một gia đình chuyên về thái cực quyền và khí công ở Trung Quốc. Ông cố của cô, Lý Ngọc Lâm (李玉琳), là học trò của Tôn Phước Toàn, người khởi xướng Tôn thức Thái cực quyền[27] Ông nội của cô, Lý Thiên Trì (李天骥), được cho là một trong những người đã phát triển ra Thái Cực Quyền 24 hình thức vào năm 1956.[30] Cha của Lý Huy, Lý Đức Ấn (李德印), là một huấn luyện viên, trọng tài và quan chức nổi tiếng ở Trung Quốc. Ông từng giữ các chức vụ cao cấp trong Hiệp hội Wushu Trung Quốc, là trọng tài chính tại Á vận hội 1990, một trong những người sáng tạo ra Thái cực quyền 42 thế vào năm 1989.[30]

Khen thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Lý Huy được Chính phủ Đặc khu hành chính Hồng Kông trao tặng:

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b 何, 漢聲 (ngày 21 tháng 3 năm 2017). “【動感人語】辦真人騷式「武術王者盃」 李暉不安於位的香港精神” [[Moving Words] "Martial Arts King's Cup" with live-action Sao style, Li Hui's uneasy Hong Kong spirit]. HK01 (bằng tiếng Trung). Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2021.
  2. ^ a b Chiu, Vivian (ngày 28 tháng 12 năm 1993). “Fighter of the film set”. South China Morning Post. tr. 14. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2021.
  3. ^ “asiad-results-wushu”. Beijing. Xinhua General Overseas News Service. ngày 4 tháng 10 năm 1990. 1020295. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2021.
  4. ^ “results at wushu (martial arts) worlds”. Beijing. Xinhua General Overseas News Service. ngày 13 tháng 10 năm 1991. 1013144. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2021.
  5. ^ “The 1st World Wushu Championships” (PDF). International Wushu Federation. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2021.
  6. ^ “世界太极拳冠军李晖” [World Tai Chi Champion Li Hui]. World Taijiquan Net (bằng tiếng Trung). ngày 26 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2021.
  7. ^ “第1回東アジア競技大会競技成績一覧” [List of competition results for the 1st East Asian Games] (PDF). Japan Wushu Taijiquan Federation (bằng tiếng Nhật). 1993. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2021.
  8. ^ Kitchell, Norideen (ngày 20 tháng 5 năm 1993). “Li brings HK down with bump”. South China Morning Post. tr. 30. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2021.
  9. ^ Walker, Jeremy (ngày 8 tháng 1 năm 1994). “Honours etched in gold; Rare feats bring glory”. South China Morning Post. Hong Kong. tr. 40. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2021.
  10. ^ “World Wushu Championships 1993 Results” (PDF). International Wushu Federation. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2021.
  11. ^ Kitchell, Norideen (ngày 4 tháng 6 năm 1994). “Amazing recovery sees Li on top”. South China Morning Post. tr. 37. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2021.
  12. ^ a b Chow, Aries (ngày 4 tháng 11 năm 1999). “Li set for return to glare of world stage”. South China Morning Post. tr. 28. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2021.
  13. ^ a b Chow, Aries (ngày 27 tháng 8 năm 2002). “Li seeks missing element”. South China Morning Post. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2021.
  14. ^ Chow, Aries (ngày 4 tháng 8 năm 1999). “Li planning HK comeback”. South China Morning Post. Hong Kong. tr. 13. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2021.
  15. ^ “results at world wushu championship”. Xinhua News Agency. ngày 6 tháng 11 năm 1999. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2021.
  16. ^ “World Wushu Championships 1999 Results” (PDF). International Wushu Federation. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2021.
  17. ^ Chow, Aries (ngày 20 tháng 5 năm 2001). “Maturity and motherhood paying off for Li”. South China Morning Post. tr. 12. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2021.
  18. ^ “3回東アジア競技大会《武術太極拳》競技成績一覧” [3rd East Asian Games "Wushu Taijiken" Competition Results List] (PDF). Japan Wushu Taijiquan Federation (bằng tiếng Nhật). 2001. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2021.
  19. ^ “World Wushu Championships 2001 Results” (PDF). International Wushu Federation. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2021.
  20. ^ “Hong Kong's leading medal hopes”. South China Morning Post. ngày 23 tháng 9 năm 2002. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2021.
  21. ^ Alladin, Unus (ngày 23 tháng 9 năm 2002). “Caution rules as SAR targets another gold rush”. South China Morning Post. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2021.
  22. ^ Sallay, Alvin (ngày 13 tháng 10 năm 2002). “Li happy with silver as wushu breaks new ground; China wishes other countries to win,' says SAR star after Myanmar claim title”. South China Morning Post. Busan. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2021.
  23. ^ “图文-太极拳美女中国香港选手李晖展示亚运会银牌” [Photo-Tai Chi beauty Li Hui from Hong Kong, China shows the silver medal in the Asian Games]. Sina Sport (bằng tiếng Trung). ngày 12 tháng 10 năm 2002. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2021.
  24. ^ Smith, Ken (ngày 13 tháng 2 năm 2004). “Bobby McFerrin Hong Kong Cultural Center KEN SMITH THE CRITICS”. Financial Times . London, England. tr. 10. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2021.
  25. ^ “Surprise package”. South China Morning Post. Hong Kong. ngày 28 tháng 10 năm 2003. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2021.
  26. ^ a b Cheung, Gary (ngày 1 tháng 6 năm 2006). “Tung awarded HK's top honour; Former chief executive lauded for 'selfless dedication' to job”. South China Morning Post. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2021.
  27. ^ a b “李晖:父亲是我的灯塔” [Li Hui: Father is my beacon]. Sohu (bằng tiếng Trung). ngày 3 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2021.
  28. ^ a b “海外侨胞传播中华文化” [Overseas Chinese spreading Chinese culture]. Ta Kung Pao (bằng tiếng Trung). ngày 1 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2021.
  29. ^ 钱, 承飞 (ngày 11 tháng 10 năm 2018). “香港"太极天后"李晖:让香港年轻人爱上太极” [Hong Kong "Tai Chi Queen" Li Hui: Let Hong Kong Young People Fall in Love with Tai Chi]. Xinmin Evening News (bằng tiếng Trung). Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2021.
  30. ^ a b “Professor Li Deyin”. www.deyin-taiji.com. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2021.
  31. ^ Sallay, Alvin (ngày 29 tháng 2 năm 2000). “Wong rides in to take San San's crown”. South China Morning Post. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2021.
  32. ^ “Winners of HK Sports Stars Awards for 2001”. Hong Kong. Xinhua General News Service. ngày 4 tháng 3 năm 2002. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2021.
  33. ^ “Last year's Sports Award winners”. South China Morning Post. ngày 16 tháng 2 năm 2004. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2021.