Meiacanthus atrodorsalis

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Meiacanthus atrodorsalis
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Blenniiformes
Họ (familia)Blenniidae
Chi (genus)Meiacanthus
Loài (species)M. atrodorsalis
Danh pháp hai phần
Meiacanthus atrodorsalis
(Günther, 1877)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Petroscirtes atrodorsalis Günther, 1877
  • Petroscirtes herlihyi Fowler, 1946

Meiacanthus atrodorsalis là một loài cá biển thuộc chi Meiacanthus trong họ Cá mào gà. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1877.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh atrodorsalis được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: atro (hoặc ater, “đen thẫm”) và dorsalis (“ở lưng”), hàm ý đề cập đến sọc gần rìa sẫm màu thường xuất hiện trên vây lưng của loài cá này.[2]

Phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

Từ quần đảo Ryukyu, M. atrodorsalis có phân bố trải dài về phía nam đến bãi cạn Rowleyrạn san hô Great Barrier, về phía đông đến quần đảo Carolinequần đảo Samoa.[1]

M. atrodorsalis sống trong đầm phá và trên các rạn san hô ở độ sâu đến ít nhất là 30 m.[1]

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

Tổng chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở M. atrodorsalis là 11 cm.[3] Thân màu xanh lam, sẫm hơn ở đầu và thân trước. Vây lưng màu vàng, có thể xuất hiện sọc đen gần rìa. Hai thùy đuôi vàng.

Số gai vây lưng: 4; Số tia vây lưng: 25–28; Số gai vây hậu môn: 2; Số tia vây hậu môn: 15–18.[3]

Sinh thái[sửa | sửa mã nguồn]

Trứng của M. atrodorsalis có chất kết dính, được gắn vào chất nền thông qua một tấm đế dính dạng sợi. Cá bột là dạng phiêu sinh vật, thường được tìm thấy ở vùng nước nông ven bờ.[3]

Các loài Meiacanthus đều có tuyến nọc độc trong răng nanh. Do đó, chúng là hình mẫu để nhiều loài khác bắt chước theo, gọi là bắt chước kiểu Bates (loài không độc bắt chước kiểu hình, hành vi của một loài có độc). M. oualanensis được bắt chước bởi cá mào gà Plagiotremus laudandus.[4]

Trong nghiên cứu cho ăn để tối ưu hóa khả năng sống sót và tăng trưởng, cá bột M. atrodorsalis nên được cho ăn luân trùng với mật độ từ 2 đến 20 con mỗi ml, và phần lớn đều ưa tiêu thụ ấu trùng nauplii của tôm Artemia.[5]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c Williams, J. T. (2014). Meiacanthus atrodorsalis. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2014: e.T48342093A48357847. doi:10.2305/IUCN.UK.2014-3.RLTS.T48342093A48357847.en. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2024.
  2. ^ Christopher Scharpf biên tập (2023). “Order Blenniiformes: Family Blenniidae”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database.
  3. ^ a b c Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Meiacanthus atrodorsalis trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2023.
  4. ^ John E. Randall (2005). “A Review of Mimicry in Marine Fishes” (PDF). Zoological Studies. 44 (3): 299–328. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm 2021.
  5. ^ Moorhead, Jonathan A.; Zeng, Chaoshu (2011). “Breeding of the forktail blenny Meiacanthus atrodorsalis: Broodstock management and larval rearing” (PDF). Aquaculture. 318 (1–2): 248–252. doi:10.1016/j.aquaculture.2011.05.018.