Sophie Hunger

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Sophie Hunger
Thông tin nghệ sĩ
Tên khai sinhÉmilie Jeanne-Sophie Welti
Tên gọi khácEmilie Welti
Sinh31 tháng 3, 1983 (41 tuổi)
Bern, Thụy Sĩ
Nguyên quánZurich, Thụy Sĩ
Thể loạiJazz pop
Nghề nghiệpTự viết nhạc và hát, soạn nhạc phim
Nhạc cụHát, guitar, blues harp, piano
Năm hoạt động2002–nay
Hãng đĩaTwo Gentlemen, Manimal
WebsiteSophieHunger.com

Sophie Hunger (tên khai sinh Émilie Jeanne-Sophie Welti, sinh vào ngày 31 tháng năm 1983) là một ca sĩ, nhà soạn nhạc phim, đa nhạc cụ (guitar, blues harp, piano) và hiện đang sống ở Berlin.

Thuở nhỏ[sửa | sửa mã nguồn]

Émilie Jeanne-Sophie Welti sinh ra vào ngày 31 tháng năm 1983 ở Bern, Thuỵ sĩ. Cô ấy là con gái của một nhà ngoại giao  và lớn lên, với hai anh chị, ở: Bern, London, Bonn và Zurich. Sophie tốt nghiệp trung học trong năm 2002, sau đó, học ở đại học tiếng Đức và tiếng Anh.[1]

Khi còn trẻ, Sophie có thời học piano. Cô ấy rất quen thuộc với dòng nhạc jazz từ khi còn nhỏ, vì cha cô thường hay nghe nó. Ngoài ra, cô ta cũng thích nhiều loại nhạc khác nhau, khi còn là một thiếu nữ, đầu tiên là hip-hopR&B. Sau đó cô nghe nhạc rock – rồi khi trưởng thành, cô tìm hiểu nhạc country, bluegrass và dân gian.[2]

Nghề nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Sophie Hunger 2015

Từ năm 2002 cho đến năm 2006, Sophie được mời ca  cho dự án Superterz và xuất hiện trên album Standards 2006 phát hành bởi nhóm đó.[3] Bắt đầu trong năm 2004, Sophie là ca sĩ chính ban nhạc indie rock, Fisher. Ban nhạc tan rã trong năm 2007.[4][5]

Sophie chơi guitar, blues harp, piano và sáng tác hầu hết các bài hát của cô bằng tiếng Anh, Tiếng Pháp, Tiếng Đức Thụy Sĩ, Tiếng Đứctiếng Ý Thụy Sĩ. Vào năm 2006, trong một vài ngày, cô ấy thu album đầu tay, Sketches on Sea,[6] ba bài hát mà được nghệ sĩ kèn trombone Michael D đệm nhạc.[7][cần nguồn tốt hơn] Album ban đầu được cô tự phát hành vào năm 2006, sau đó tái phát hành vào năm qua hãng nhạc Gentlemen Records.

Ngày 6 tháng 7 năm 2008, Sophie, và ban của cô trình diễn ở Miles Davis Hall tại Lễ hội nhạc Jazz Montreux, cũng như Yael Naim và Camille.[8]

Vào tháng 10 năm 2008, Sophie phát hành album đầu tiên của cô trong phòng thu âm Monday's Ghost, cho Two Gentlemen Records.

Vào tháng bảy, năm 2009, Sophie và ban nhạc của cô chơi trong ngày thứ 2 tại TEDGlobal.[9]

Trong tháng 6 năm 2010, Sophie và ban nhạc chơi tại sân khấu John Peel tại đại nhạc hội Glastonbury. Sophie là người Thụy Sĩ đầu tiên chơi ở đó. Vào tháng 7 năm 2010 cô trình diễn ở 100 Lạc bộ, London, trong tháng 10 năm 2010 tại Roundhouse, London.

Vào tháng chín, năm 2010, Sophie và ban nhạc chơi tại sân khấu Plaça del Rei stage ở La Mercè, Barcelona.[10]

Ngày 29 tháng 6 năm 2011 Sophie trình diễn tại  Lễ hội nhạc Jazz Quốc tế ở Montreal, Canada, mở đầu cho Madeleine Peyroux. Cũng tại Lễ hội này, cô cũng mở đầu cho Erik Truffaz Quartet vào thứ hai tuần sau, 4 tháng 7 năm 2011. 

Vào năm 2011, phiên bản Noir Désir's "Le Vent Nous Portera" của cô, được xuất hiện trong phim "Café de Flore" được đạo diễn bởi Jean-Marc Vallée.

Đĩa hát[sửa | sửa mã nguồn]

Album[sửa | sửa mã nguồn]

Sophie Hunger trình diễn với ban nhạc tại TED (hội thảo)Vương quốc Anh vào ngày 22 tháng bảy năm 2009
Sophie Hunger trình diễn với ban nhạc tại Leverkusener Jazztage 2015 ở Đức
Năm Album Vị trí cao
TH TH BEL
(Wa)
GER FRA
2006 Phác thảo trên Biển
Năm 2008 Thứ hai là Ghost 1 105
Năm 2010 1983 1 62 87
2012 Sự Nguy hiểm của Ánh sáng 2 57 50 52
2015 Trăng 1 17 178 6 83

Album chơi Live[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Album Vị trí cao
TH TH GER FRA
2013 Các Quy tắc của Lửa 21 89
Với các ban nhạc Fisher, dưới tên Emilie Welti

Đĩa đơn[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Tiêu đề Vị trí cao Album
BEL
(Wa)

FRA
[11]
2014 "Le trút chúng portera" 20 154

Nhạc phim[sửa | sửa mã nguồn]

như Emilie Welti
  • Năm 2008: Der Freund (với Marcel Vaid):
  • Năm 2010: Ramsey 202[12]
như Sophie Hunger
  • 2016: My Life as a Courgette

Đóng phim[sửa | sửa mã nguồn]

như Emilie Welti
  • Năm 2008: Der Freund
  • 2012: Der Kumpel
như Sophie Hunger
  • 2012: The Rules of Fire
  • 2016: My Life as a Courgette

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Erik Brandt Hoege: „Man braucht irgendeine Bewusstlosigkeit“ Interview for Jetzt.De, published ngày 28 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2010.
  2. ^ Jakob Buhre:„Ich glaube, das Ganze ist ein Zufall.“ Published ngày 3 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2010.
  3. ^ Martin Fritsche (2010). “Background Superterz” (PDF). Superterz. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 25 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2013. Đã định rõ hơn một tham số trong |tác giả=|họ= (trợ giúp)Đã định rõ hơn một tham số trong |tác giả=|họ= (trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |tác giả=|họ= (trợ giúp)
  4. ^ Fisher Lưu trữ 2009-03-05 tại Wayback Machine Error in webarchive template: Check |url= at kuenschtli.ch. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2010.
  5. ^ Tobi Müller: Sophies Welt Published ngày 14 tháng 12 năm 2007. Published in: Das Magazin, number 50/2007.
  6. ^ “Sophie Hunger Electronic Press Kit – Streaming Music, Photos, Videos, Lyrics and Info”. SonicBids.com. 2008. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2013.
  7. ^ “Sophie Hunger – Sketches on Sea (CD, Album)”. Discogs. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2013.
  8. ^ Last.FM user malakym. “Montreux Jazz Festival Sophie Hunger + Yael Naim + Camille at Miles Davis Hall (Montreux) on 6 Jul 2008”. Last.FM. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2013. Đã định rõ hơn một tham số trong |tác giả=|họ= (trợ giúp)
  9. ^ “Program Speakers A-Z”. TED.com. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2009.
  10. ^ “Grups Sophie Hunger”. BCN.Es. 2010.
  11. ^ “Sophie Hunger discography”. Les Charts. Hung Medien. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2014.
  12. ^ ps-72.com: Zimmer 202 Lưu trữ 2010-06-02 tại Wayback Machine (tiếng Đức)

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]