Tô Lan Phương

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nghệ sĩ Nhân dân
Tô Lan Phương
Thông tin cá nhân
Sinh
Ngày sinh
26 tháng 8, 1948 (75 tuổi)
Nơi sinh
Văn Giang, Hưng Yên, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Giới tínhnữ
Quốc tịch Việt Nam
Nghề nghiệpCa sĩ
Gia đình
Hôn nhân
Trần Mùi
Lĩnh vựcNhạc thính phòng
Khen thưởngHuân chương Kháng chiến Huân chương Kháng chiến hạng Nhất
Danh hiệuNghệ sĩ Ưu tú (1984)
Nghệ sĩ Nhân dân (2019)
Sự nghiệp âm nhạc
Đào tạoTrường Âm nhạc Việt Nam
Dòng nhạc
Ca khúc
  • Xuân chiến khu
  • Bài ca năm tấn
  • Những cô gái quan họ
  • Đường tàu mùa xuân

Tô Lan Phương (sinh ngày 26 tháng 8 năm 1948) là nữ ca sĩ nổi tiếng với dòng nhạc cách mạng Việt Nam.

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Tô Lan Phương sinh ngày 26 tháng 8 năm 1948 tại xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Bà sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng và yêu nghệ thuật. Ông nội của bà là nhà cách mạng Tô Hiệu, người từng bị giặc Pháp bắt giam trong Nhà tù Sơn La.[1]

Sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Khi mới 10 tuổi, Tô Lan Phương đã gia nhập Đội Sơn ca của Đài tiếng nói Việt Nam và đã nổi trội khi còn rất trẻ.

Năm 1967, Tô Lan Phương khi đó vừa học xong hệ trung cấp thanh nhạc Trường Âm nhạc Việt Nam (nay là Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam), được nhà trường cử đi học bảy năm ở Nhạc viện quốc gia Bình Nhưỡng (Triều Tiên). Nhưng bà đã bỏ lại cơ hội đó để tham gia vào Đoàn Văn công Giải phóng, xung phong lên đường vào Chiến trường B2 phục vụ cho bộ đội chiến sĩ.[2]

Từng có một đại đội thuộc Sư đoàn 9 vùng Đông Nam Bộ mang phiên hiệu Đại đội Tô Lan Phương vì các chiến sĩ thuộc đại đội rất yêu mến và say đắm tiếng hát của bà nên đã lấy tên bà đặt cho tên đại đội.[3]

Sau ngày Thống nhất năm 1975, Tô Lan Phương công tác tại Đoàn Nghệ thuật Ca múa nhạc Bông Sen Thành phố Hồ Chí Minh, bà tiếp tục tham gia các Hội thi âm nhạc trong nước cũng như quốc tế và đã giành được nhiều giải thưởng cao quý.

Những năm tháng sau này, Tô Lan Phương sống thầm lặng cùng chồng tại Thành phố Hồ Chí Minh và chỉ biểu diễn tại một số buổi lễ kỷ niệm lớn của dân tộc.

Các bài hát nổi bật[sửa | sửa mã nguồn]

  • Đường tàu mùa xuân (Phạm Minh Tuấn)
  • Xuân chiến khu (Xuân Hồng)
  • Khát vọng mùa xuân (Huy Du)
  • Lời anh vọng mãi ngàn năm (Vũ Thanh)
  • Câu hát bông sen (Thanh Trúc)
  • Khúc hát người Hà Nội (Trần Hoàn)
  • Đi tới những chân trời (Xuân Giao)
  • Anh lính tình nguyện và điệu múa Ap-sa-ra (Minh Quang)

Giải thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Đời tư[sửa | sửa mã nguồn]

Tô Lan Phương kết hôn với nghệ sĩ violin Trần Mùi - một người đồng nghiệp, chiến sĩ đã đồng hành cùng bà trong Đoàn Văn công Giải phóng.[2] Hiện vợ chồng bà sinh sống tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ cand.com.vn. “Người nghệ sĩ gắn liền với những huyền thoại”. Báo Công an Nhân dân điện tử. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2024.
  2. ^ a b nhandan.vn. “Người nghệ sĩ cống hiến tuổi thanh xuân cho đất nước”. Báo Nhân dân. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2024.
  3. ^ baokhanhhoa.vn. “Bông hoa lan từ lửa đạn chiến tranh”. Báo Khánh Hòa Online. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2024.
  4. ^ a b c d e “NSND Tô Lan Phương”. hotovietnam.org. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2024.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]