Takeuchi Miyu

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Takeuchi Miyu
Thông tin nghệ sĩ
Tên bản ngữ竹内美宥
Tên khai sinhTakeuchi Miyu
Sinh12 tháng 1, 1996 (28 tuổi)
Nguyên quánTokyo,  Nhật Bản
Thể loạiJ-pop, K-pop
Nghề nghiệpCa sĩ thần tượng Nhật Bản, Diễn viên, Youtuber
Năm hoạt độngAKB48 (2009-2018)
Mystic Story (2018-2021)
Hãng đĩaAKS
Hợp tác vớiAKB48, Mini Skirt, Fruits
Thông tin YouTube
Kênh
Năm hoạt động2012-nay
Thể loại
  • Âm nhạc
Lượt đăng ký244.000
Tổng lượt xem17.949.742
100.000 lượt đăng ký 2018
Lượt đăng ký và lượt xem được cập nhật tính đến 3/8/2021.

Takeuchi Miyu (竹内美宥 (Trúc Nội Mỹ Hựu)?) sinh ngày 12 tháng 1 năm 1996 tại Tokyo, Nhật Bản. Cô từng là thành viên của nhóm nhạc thần tượng Nhật Bản AKB48 trong 9 năm, cô thông báo tốt nghiệp vào năm 2018.

Sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Takeuchi Miyu sinh ra tại Tokyo, Nhật Bản, trong một gia đình có mẹ là nghệ sĩ opera, Miyu có thể chơi được piano, guitar, kèn trumpet, cô ấy còn học ballet cơ bản từ khi còn rất nhỏ. Lớn lên Miyu tham gia học tại Đại học Keio, ngôi trường danh giá và có truyền thống bậc nhất Nhật Bản. Ngoài ra cô gái này còn có thể tự sáng tác nhạc.

2008: Trước khi ra mắt tại AKB48

Trước khi gia nhập AKB48, Takeuchi ký hợp đồng với Stardust Production vào năm 2004. xuất hiện trong MV "Ameagari no Kyū na Sakamichi" của nhóm nhạc rock Little By Little, Miyu từng là thành viên của nhóm nhạc nữ Fruits, bước ra từ chương trình truyền hình "Songs Star !!". Năm 2008, nhóm ra mắt với đĩa đơn "Koi no Saison" và họ tan rã vào năm 2009.

2009–2018: AKB48 và Produce 48[sửa | sửa mã nguồn]

Miyu vượt qua các buổi thử giọng để trở thành thực tập sinh của AKB48 vào năm 2009. Trong khoảng thời gian này, cô là một phần của nhóm nhỏ Mini Skirt và phát hành ca khúc "Mini Skirt no Yōsei" nhằm quảng cáo cho thương hiệu trò chơi Pretty Rhythm: Mini Skirt, game mà cô xuất hiện làm nhân vật trong bản cập nhật mùa 2[1]. Miyu lần đầu chính thức ra mắt dưới danh nghĩa một thành viên của AKB48 vào năm 2010, sau đó hoạt động cùng Team 4 mới thành lập vào năm 2011[2], vào tháng 5 cô được chọn trở thành một phần của nhóm nhỏ "Ojarumaru Sisters" để hát "Hatsukoi wa Mitsuru", được sử dụng làm nhạc nền anime Ojarumaru

Miyu kí hợp đồng với công ty giải trí OH! Enterprise vào năm 2012[3]. Không lâu sau đó, Team 4 bị giải tán và Miyu đã được chuyển qua Team B[4]. Cô sau đó đã lập kênh Youtube của riêng mình và đăng tải nhiều bản cover lẫn tự phối khí nhạc Nhật, Hàn, Âu Mỹ.

Vào năm 2018, Miyu tham gia chương trình truyền hình thực tế sống còn Produce 48 và biểu diễn trên sân khấu M Countdown tập 570 vào ngày 10 tháng 5.

Ngày 31 tháng 8, cô dừng chân ở hạng 17 dù trước đó là một trong những ứng cử viên nặng kí khi liên tục nằm trong Top 12. Ngày 5 tháng 9, cô tuyên bố tốt nghiệp khỏi AKB48 nhưng vẫn sẽ tiếp tục có những hoạt động cùng nhóm cho đến ngày 25 tháng 12 năm 2018.

Vào giữa tháng 10, M/V No Way Man của AKB48 đã được ra mắt với 30 thành viên được bầu chọn trong Senbatsu, bao gồm Miyu. Ngày 31 tháng 12, hợp đồng giữa Miyu và OH! Enerprise chấm dứt. Miyu đã đến Hàn Quốc và tìm cho mình một công ty giảI trí phù hợp

Miyu là thành viên thuộc thế hệ thứ 9 của AKB48. Cô được các fan từ Nhật đến Hàn nhận xét là một ca sĩ và vũ công tài năng và là thế hệ vàng của AKB Group, những cái tên thuộc thế hệ này đã từng và đang đảm nhận những vị trí quan trọng trong AKB. Hầu hết mọi người trong thế hệ vàng đều trở nên nổi bật. Nhưng chỉ Miyu thì lại không thể bật lên trong thế hệ của mình, không phải vì Miyu thiếu tài năng hay bị quản lý quên lãng mà là vì Miyu chưa bao giờ được sự may mắn "ngẩng đầu" vào, cô được coi là một "ca sĩ trong sự thầm lặng" (Vì Miyu chưa bao giờ bộc lộ ra tài năng của mình trước mọi người và xã hội). Nhưng Miyu lại thông minh với tấm bằng đại học hàng đầu Nhật Bản, không chỉ thế, cô rất xinh đẹp, tài năng và đầy đam mê, Miyu còn là một cô gái tốt bụng, nhân hậu và hiền hòa. Tưởng chừng tất cả các yếu tố ấy sẽ khiến ACE gốc của gen 9 bật lên, nhưng vậy, giữa vườn hoa trăm sắc màu của AKB48 thì cái tên Miyu vẫn còn là một bông hoa " không màu" với rất nhiều người.[5][6]

2018- nay: Hoạt động tại Hàn Quốc cho Mystic Story[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 3 năm 2019, Miyu đã đăng trên Twitter về việc cô kí hợp đồng gia nhập Mystic Story với tư cách là nghệ sĩ solo[7][8]. Ngày 22 tháng 10, Miyu đã góp giọng vào ca khúc "My Type", sáng tác bởi CEO của Mystic - Yoon Jongshin. "My Type" nằm trong dự án Monthly Project 2019. Trong năm này, cô đã nhiều lần đi hát busking solo hoặc cùng với các thực tập sinh khác. Miyu được kì vọng sẽ là một thành viên nổi bật trong girlgroup chuẩn bị sắp ra mắt vào năm 2020 của Mystic.

Vào ngày 24 tháng 2 năm 2021, nữ ca sĩ phát hành đĩa đơn solo thứ 2 mang tên "Forbidden Game" (왠지 그럼 안될 것 같아) trong khuôn khổ Yoon Jong Shin Monthly Repair Project của Yoon Jong Shin.[9]

Vào ngày 3 tháng 5 năm 2021, Takeuchi tuyên bố kết thúc hợp đồng độc quyền với Mystic Story[10][11]

Đời tư[sửa | sửa mã nguồn]

Takeuchi học tại Đại học Keio vào 2013, tham gia khóa học tại Shonan Fujisawa Campus trong khi tiếp tục biểu diễn cùng AKB48 tại Nhà hát ở Akihabara.[12]

Danh sách đĩa nhạc[sửa | sửa mã nguồn]

Nghệ sĩ chính[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Tên Album
2019 "My Type"

(내 타입)

Yoon Jong Shin Monthly Project 2019: October
2021 Forbidden Game"

(왠지 그럼 안될 것 같아)

Yoon Jong Shin Monthly Repair Project

Video âm nhạc đã xuất hiện[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Tên Album
2015 "Oyoge! Taiyaki-kun"

(với Junichi Inagaki)

A Man and A Woman 5
2017 "Kimi ni Todoke"

(với Kobasolo)

Collection
"Sangatsu Kokonoka"

(với Kobasolo)

2019 "Baby I Love U"

(với Kobasolo)

Collection 2

Các single đã tham gia[sửa | sửa mã nguồn]

AKB48[sửa | sửa mã nguồn]

  • Manatsu no Sounds Good! (2012)
  • Eien Pressure (2012)
  • No Way Man (2018)

Album đã tham gia[sửa | sửa mã nguồn]

Album của AKB48[sửa | sửa mã nguồn]

  • High school days (Koko ni Ita koto)
  • Koko ni Ita Koto (Koko ni Ita koto)
  • Chokkaku Sunshine (1830m)
  • Renai Sousenkyo (1830m)
  • Aozora yo Sabishikunai ka? (1830m)
  • Ponkotsu Blues (Tsugi no Ashiato)
  • Kanashiki Kinkyori Renai (Tsugi no Ashiato)
  • To go de (Koko ga Rhodes da, Koko de Tobe!)
  • Music Junkie (0 to 1 no Aida)

Khác[sửa | sửa mã nguồn]

  • "Pick Me" - Produce 48 (2018)
  • "See You Again" - Produce 48 The Promise (2018)
  • "We Together" - Produce 48 (2018)

Phim ảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Phim[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Tên Vai diễn Ghi chú
2012 Shiritsu Bakaleya Koukou Nozomi Yuusa [13]
2014 Nemurihime: Dream On Dreamer Hiiragi [14]

Phim truyền hình[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Tên Vai diễn Kênh Ghi chú
2012 Majisuka Gakuen Miyu TV Tokyo Mùa 3[15]

Chương trình truyền hình[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Tên Vai trò Kênh Ghi chú
2010–2018 AKBingo! Bản thân Nippon TV Chương trình tạp kỹ
2011–2017 AKB48 Nemousu TV Family Gekijo
2013–2018 AKB48 Show! NHK
2018 Produce 48 Mnet Chương trình thực tế sống còn

Game[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Tên Vai trò Ghi chú
2010 Pretty Rhythm: Mini Skirt Miyumiyu Mùa 2[16][17]

Chương trình radio[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Tên Vai trò Đài phát sóng
2013–2015 AKB48 Konya wa Kaeranai ("AKB48 không về nhà tối nay") MC (với Iwata Karen, Muto Tomu) Chubu-Nippon Broadcasting

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “AKB研究生ユニット、ゲームCMでイメージキャラ担当”. Natalie (bằng tiếng Nhật). ngày 30 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2019.
  2. ^ チーム4発足 (bằng tiếng Nhật). CyberAgent. ngày 7 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2019.
  3. ^ AKB横山&SKE松井玲奈ら15人が所属事務所移籍へ (bằng tiếng Nhật). Oricon. ngày 26 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2019.
  4. ^ 東京ドーム公演初日サプライズ!AKB、新チーム体制発表 (bằng tiếng Nhật). Sports Nippon. ngày 24 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2019.
  5. ^ “Takeuchi Miyu: Sự nghiệp bước đầu khởi sắc tại Produce 48 sau 9 năm lu mờ ở AKB48”.
  6. ^ “Takeuchi Miyu của Produce 48: Suốt 9 năm vô danh ở AKB48, nay đã được tỏa sáng!”.
  7. ^ '프로듀스48' 타케우치 미유, 미스틱엔터와 계약 체결(공식입장)”. Naver (bằng tiếng Hàn). ngày 8 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2019.
  8. ^ Park, Ju-min (ngày 30 tháng 4 năm 2019). “K-Pop stardom lures Japanese youth to Korea despite diplomatic chill”. Reuters. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2021.
  9. ^ Kim, Miji. '월간 윤종신' 타케우치 미유 가창 '왠지 그럼 안될 것 같아', 오늘(24일) 발매” (bằng tiếng korean).Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  10. ^ Lee, Seung-Gil. “AKB48 출신 타케우치 미유, 미스틱스토리 전속계약 만료 "오랜 논의 끝에" [전문]” [Miyu Takeuchi from AKB48, Mystic Story exclusive contract expires "After a long discussion" [Full text]] (bằng tiếng korean).Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  11. ^ Jeong, Hee-yeon. “[전문] 타케우치 미유 전속계약 종료, 미스틱 떠난다” [[Professional] Takeuchi Miyu's exclusive contract ends, leaving Mystic] (bằng tiếng korean).Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  12. ^ 輝き人!NO.41 竹内美宥/Miyu Takeuchi (bằng tiếng Nhật). Keio Journal. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2019.
  13. ^ “Japanese Cinema Database” (bằng tiếng Nhật). Agency for Cultural Affairs, Government of Japan. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2019.
  14. ^ “Nemurihime: Dream On Dreamer (2014) - IMDb”. IMDb. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2019.
  15. ^ Majisuka Gakuen 3 Official Website (bằng tiếng Nhật). TV Tokyo.
  16. ^ “AKB研究生ユニット「プリティーリズム」でゲームデビュー”. Natalie (bằng tiếng Nhật). ngày 4 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2019.
  17. ^ “「プリティーリズム・ミニスカート」,新バージョンが10月中旬に稼動”. 4gamer (bằng tiếng Nhật). ngày 4 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2019.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]