Bước tới nội dung

Danh sách đĩa nhạc của Azealia Banks

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Danh sách đĩa nhạc của Azealia Banks
Azealia Banks
Banks biểu diễn tại Giải thưởng NME năm 2012
Album phòng thu1
EP2
Đĩa đơn18
Mixtapes3

Rapper người Mỹ Azealia Banks đã phát hành một album phòng thu, hai đĩa mở rộng (EP), ba mixtape, mười tám đĩa đơn (gồm sáu đĩa đơn hợp tác) và mười hai đĩa đơn quảng bá. Năm mười bảy tuổi vào tháng 11 năm 2008, Banks lấy nghệ danh Miss Bank$ và ký hợp đồng với hãng thu âm XL.[1] Tuy nhiên, cô ấy đã nhanh chóng kết thúc hợp đồng vì hai bên không đồng quan điểm.[2] Trong năm 2009, Banks đã phát hành vài bài hát cho phép tải miễn phí trên internet, bao gồm "Gimme a Chance" và "Seventeen". Sau khi rời khỏi hãng thu âm XL, Banks bỏ nghệ danh cũ, lấy tên thật hợp pháp của cô ấy làm nghệ danh, Azealia Banks.[1]

Trong tháng 9 năm 2011, Banks tự phát hành đĩa đơn đầu tay "212" của cô ấy, nó đã vào được bảng xếp hạng âm nhạc của một vài nước gồm Úc, Ireland và Vương quốc Anh. Đĩa đơn đã được chứng nhận Bạch kim bởi Công nghiệp thu âm Anh. Trong năm 2012, Banks đã ký thỏa thuận thu âm với InterscopePolydor để thu âm album đầu tay của cô ấy.[3] Trong lúc ấy, Banks đã ra mắt đĩa mở rộng đầu tay của cô ấy, có tên là 1991, nó đã nhận được các nhận xét tốt từ các trang đánh giá. Nó đã được quảng bá rộng rãi hơn bằng việc phát hành đĩa đơn thứ hai "Liquorice". Tính đến tháng 11 năm 2014, đĩa mở rộng đã bán được 35,000 bản tại Hoa Kỳ.

Banks đã tự phát hành một mixtape miễn phí đầu tay có tên Fantasea vào tháng 7 năm 2012. Tháng 7 hai năm sau đó, Banks đã chấm dứt hợp đồng với Interscope và Polydor, quyết định ký thỏa thuận mới với Prospect Park. Tháng 11 năm 2014, album đầu tay của cô ấy Broke with Expensive Taste đã chính thức ra mắt sau nhiều lần trì hoãn. Album đã nhận được các phản hồi tích cực từ các trang đánh giá và đạt đến hạng 30 của bảng xếp hạng Billboard 200 tại Hoa Kỳ. Ba đĩa đơn đã ra mắt trước khi ra album bao gồm "Yung Rapunxel", "Heavy Metal and Reflective" và "Chasing Time". Tháng 3 năm 2015, đĩa đơn thứ tư của album, "Ice Princess", được ra mắt.

Tháng 3 năm 2016, Banks đã ra mắt mixtape thứ hai, Slay-Z, nó bao gồm những khách mời như Nina SkyRick Ross. Đĩa đơn mở đường của mixtape, "The Big Big Beat" đã được ra mắt trong tháng 2 cùng năm. Khi mixtape được tái phát hành để thương mại hóa, đĩa đơn quảng bá "Crown" đã ra mắt, với vai trò là bài hát bổ sung từ mixtape.

Khoảng cuối năm 2019, Banks đã tạm ra mắt mixtape thứ 3 của cô ấy, Yung Rapunxel Pt. II trên SoundCloud.[4] Tiêu đề mixtape được tham khảo từ đĩa đơn của Banks trong năm 2013 Yung Rapunxel. Mixtape đã được ra mắt như một bài hát dài 30 phút không ngắt quãng có chứa 11 bài hát trong mixtape cho đến khi nó được gỡ xuống.

Banks hiện đang làm việc với 2 dự án âm nhạc rất được mong đợi, cả 2 đều đã bị dời ngày phát hành tạm thời và nhiều lần. Dự án thứ nhất là phần tiếp theo của mixtape ra hồi 2012, được đặt tên là Fantasea II: The Second Wave cái còn lại có tên Business & Pleasure. Fantasea II: The Second Wave có chứa các bài hát đã được ra mắt làm đĩa đơn trước đó như "Anna Wintour" và "Treasure Island", cả hai đuọc phát hành trong năm 2018 thông qua hãng đĩa cũ gần đây nhất của cô ấy, eOne Music. Album có những bài hát ra mắt trước dưới dạng đĩa đơn quảng bá như "Count Contessa", đã được tính ra mắt trong 2013,[5] "Escapades" (2017) và "Movin' On Up (Coco's Song, Love Beats Rhymes)" (2018). Tương tự, Business & Pleasure, một dự án được định hướng là một album rap, cũng có một số đĩa đơn đã ra mắt trước đó như "Black Madonna" (2020) có sự góp mặt của nhà sản xuất Lex Luger cũng như các đĩa đơn quảng bá gồm "Pyrex Princess" (2019) và "Mamma Mia" (2020). Cả 2 album sẽ được phát hành thông qua hãng đĩa tự lập của Banks, "Chaos & Glory Recordings".

Album phòng thu

[sửa | sửa mã nguồn]
Danh sách album phòng thu, với thông tin chi tiết, vị trí trên bảng xếp hạng và doanh số
Tên Thông tin chi tiết Vị trí xếp hạng cao nhất Doanh số
Mỹ
[6]
Mỹ Indie
[7]
Mỹ
R&B

[8]
Mỹ
Rap

[9]
Anh
[10]
Anh
R&B

[11]
IRE
[12]
SCO
[13]
Úc
[14]
Úc Urban
[15]
Broke with Expensive Taste 30 2 3 2 62 6 79 58 49 2

Đĩa mở rộng

[sửa | sửa mã nguồn]
Danh sách đĩa mở rộng, với thông tin chi tiết, vị trí trên bảng xếp hạng, doanh số và chứng nhận
Tên Thông tin chi tiết Vị trí xếp hạng cao nhất Doanh số Chứng nhận
Mỹ
[6]
Mỹ
Heat

[19]
Mỹ
R&B

[8]
Mỹ
Rap

[9]
Anh
[10]
Anh
R&B

[11]
IRE
[20]
SCO
[21]
Úc
[22]
Úc Urb.
[23]
1991
  • Phát hành: 28 tháng 5, 2012[24]
  • Hãng: Interscope, Polydor
  • Định dạng: CD, tải nhạc, streaming, đĩa than
133 1 17 12 79 19 97 96 63 10
  • Mỹ: 35,000[C]
Icy Colors Change
  • Phát hành: 20 tháng 12, 2018[27]
  • Hãng: eOne Music
  • Định dạng: CD, tải nhạc, streaming, đĩa than
Danh sách mixtape, với thông tin chi tiết
Tên Thômg tin chi tiết
Fantasea
Slay-Z
  • Phát hành: 24 tháng 3, 2016[29]
  • Hãng: Phát hành độc lập
  • Định dạng: Tải nhạc, streaming
Yung Rapunxel: Pt. II
  • Phát hành: 11 tháng 9, 2019
  • Hãng: Chaos & Glory Recordings
  • Định dạng: Streaming

Đĩa đơn

[sửa | sửa mã nguồn]

Với tư cách hát chính

[sửa | sửa mã nguồn]
Danh sách đĩa đơn hát chính, với thông tin chi tiết, vị trí trên bảng xếp hạng và chứng nhận
Tên Năm Vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng Chứng nhận Album
Mỹ
Dance

[30]
Mỹ
Elec.

[31]
Anh
[32]
Anh R&B
[33]
Bỉ
(FL)

[34]
HL
[35]
IRE
[36]
Nhật
[37]
Úc
[38]
Úc
Urb.

[39]
"212"[40]
(hợp tác với Lazy Jay)
2011 12 3 17 14 7 68 20 1991
"Liquorice"[42] 2012 [D]
"Yung Rapunxel"[44] 2013 152 30 25 Broke with Expensive Taste
"Heavy Metal and Reflective"[45] 2014
"Chasing Time"[46] 12 48
"Ice Princess"[47] 2015
"The Big Big Beat"[48] 2016 Slay-Z
"Chi Chi"[49] 2017 Đĩa đơn không thuộc album
"Anna Wintour"[50] 2018 6 Fantasea II: The Second Wave
"Treasure Island"[51]
"Black Madonna"[52]
(hợp tác với Lex Luger)
2020 Business & Pleasure
"Six Flags"
(hợp tác với Slim Dollars)
2021
"—" đĩa đơn không lọt vào bảng xếp hạng hoặc không phát hành tại đó.

Với tư cách hợp tác

[sửa | sửa mã nguồn]
Danh sách đĩa đơn hợp tác, với năm phát hành
Tên Năm Album
"Control It"[53]
(Shystie hợp tác với Azealia Banks)
2012 Gold Dust: Vol. 2
"II. Earth: The Oldest Computer (The Last Night)"[54]
(Childish Gambino hợp tác với Azealia Banks)
2013 Because the Internet
"Blown Away"[55]
(GypjaQ hợp tác với Azealia Banks)
2015 Đĩa đơn không thuộc album
"I'm That..." (Remix)[56]
(R. City hợp tác với Beenie Man và Azealia Banks)
"Trap Queen" (Remix)[57]
(Fetty Wap hợp tác với Quavo, Gucci Mane và Azealia Banks)
"Wut U Do"[58]
(Newbody hợp tác với Azealia Banks)
2019 Corporate Rave
"Hypnotic"[59]
(Paul Oakenfold hợp tác với Azealia Banks)
2021 Đĩa đơn không thuộc album

Đĩa đơn quảng bá

[sửa | sửa mã nguồn]
Danh sách đĩa đơn quảng bá, với năm và vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng
Tên Năm Vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng Album
Anh
[60]
Anh
R&B

[61]
Bỉ
(FL)
Tip

[62]
Bỉ
(FL)
Urb.

[62]
"BBD"[63] 2013 Broke with Expensive Taste
"ATM Jam"[64]
(hợp tác với Pharrell)
169 39 55 37 Đĩa đơn không thuộc album
"Crown"[65] 2017 Slay-Z
"Escapades" Fantasea II: The Second Wave
"Movin' On Up (Coco's Song, Love Beats Rhymes)"[66] 2018
"Playhouse"[a][67] 2019
"Count Contessa"[b][68]
"Pyrex Princess"[c][69] Business & Pleasure
"Slow Hands"[d][71] 2020 Đĩa đơn không thuộc album
"Salchichón"[72]
(hợp tác với Onyx)
"Mamma Mia"[73] Business & Pleasure
"Nirvana"[74] 2021
  1. ^ Doanh số của Broke with Expensive Taste tại Hoa Kỳ tính đến tháng 4 năm 2015.[17]
  2. ^ Doanh số của Broke with Expensive Taste tại Vương quốc Anh tính đến tháng 11 năm 2014.[18]
  3. ^ Doanh số của 1991 tại Hoa Kỳ tính đến tháng 11 năm 2014.[25]
  4. ^ "Liquorice" không lọt vào bảng xếp hạng Flemish Ultratop 50, nhưng đạt đỉnh tại hạng 73 trên Flemish Ultratip chart.[43]
  1. ^ Phát hành độc quyền trên SoundCloud
  2. ^ "Count Contessa" đã được đăng lên SoundCloud vào ngày 13 tháng 9, 2013 tuy nhiên, nó đã được ra mắt trên các nền tảng nghe nhạc chính thống vào ngày 16 tháng 12, 2019.
  3. ^ "Pyrex Princess" was originally released on ngày 25 tháng 8 năm 2018 but was later taken down due to unknown circumstances. The song was re-uploaded to all platforms on ngày 16 tháng 12 năm 2019.
  4. ^ "Slow Hands" là phiên bản làm lại từ bản gốc của Interpol đã được đăng lên mạng đồng quyền trong năm 2012 nhưng sau đó nó đã tái phát hành trên các nền tảng chính thống vào ngày 16 tháng 3, 2020.[70]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Baron, Zach (ngày 28 tháng 8 năm 2012). “The Making of Azealia Banks”. Spin. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2014.
  2. ^ “Azealia Banks Has Pop At XL Recordings”. The Quietus. ngày 5 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2014.
  3. ^ Vozick-Levinson, Simon (ngày 25 tháng 11 năm 2014). “Azealia Banks' Long, Twisted Road to 'Broke with Expensive Taste'. Rolling Stone. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2014.
  4. ^ “Azealia Banks shares Yung Rapunxel: Pt. II mixtape”. The FADER (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2020.
  5. ^ Longfellow, Robert (ngày 9 tháng 12 năm 2015). “Azealia Banks Hits The Beach In 'Count Contessa' VIdeo”. HipHopWired. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2015.
  6. ^ a b “Azealia Banks – Chart History – Billboard 200”. Billboard. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2018.
  7. ^ “Azealia Banks – Chart History – Independent Albums”. Billboard. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2018.
  8. ^ a b “Azealia Banks – Chart History – Top R&B/Hip-Hop Albums”. Billboard. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2018.
  9. ^ a b “Azealia Banks – Chart History – Top Rap Albums”. Billboard. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2015.
  10. ^ a b “Azealia Banks – Full Official Chart History”. Official Charts Company. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2015.
  11. ^ a b Azealia Banks on the UK R&B Albums Chart:
  12. ^ “Top 100 Artist Album, Week Ending ngày 13 tháng 11 năm 2014”. Irish Recorded Music Association. ngày 13 tháng 11 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2015.
  13. ^ “Official Scottish Albums Chart Top 100”. Official Charts Company. ngày 9 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2015.
  14. ^ “Discography Azealia Banks”. ARIA Charts. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2015.
  15. ^ “ARIA Australian Top 40 Urban Albums”. ARIA Charts. ngày 17 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2015.
  16. ^ Gordon, Jeremy (ngày 6 tháng 11 năm 2014). “Surprise: Azealia Banks' Long Delayed Broke With Expensive Taste Is Out Now”. Pitchfork Media. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2015.
  17. ^ Syme, Rachel (ngày 3 tháng 4 năm 2015). “Billboard Cover: Azealia Banks on Why No One Really Wants to See Her Naked, Her Impure Thoughts About Barack Obama and Why She's 'Not Here to Be Your Idol'. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2016.
  18. ^ Jones, Alan (ngày 10 tháng 11 năm 2014). “Official Charts analysis: Ed Sheeran pips Calvin Harris to No.1 on albums”. MusicWeek. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2015.
  19. ^ “Azealia Banks – Chart History – Heetseekers Albums”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2015.
  20. ^ “Top 100 Singles, Week ending 31st May 2012”. Irish Recorded Music Association. ngày 31 tháng 5 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2014.
  21. ^ “Official Scottish Singles Chart Top 100”. Official Charts Company. ngày 3 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2015.
  22. ^ “ARIA Top 100 Singles – Week Commencing 6th August 2012” (PDF). ARIA Charts. ngày 6 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2015.
  23. ^ “ARIA Urban Singles Chart – Week Commencing 1st April 2013” (PDF). ARIA Charts. ngày 1 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2015.
  24. ^ Corner, Lewis (ngày 28 tháng 5 năm 2012). “Azealia Banks previews new EP '1991' – listen”. Digital Spy. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2015.
  25. ^ Mendizabal, Amaya (ngày 13 tháng 11 năm 2014). “Azealia Banks' 'Broke' Bows at No. 2 on Rap Albums Chart”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2016.
  26. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2013 Singles”. Australian Recording Industry Association. ngày 31 tháng 12 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2016.
  27. ^ “Azealia Banks publica este viernes 'Icy Colors Change', un EP navideño”. JNSP (bằng tiếng Tây Ban Nha). ngày 3 tháng 12 năm 2018.
  28. ^ Tate, Greg (ngày 16 tháng 7 năm 2012). “Azealia Banks, 'Fantasea' (self-released mixtape)”. Spin. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2015.
  29. ^ Monroe, Jazz (ngày 24 tháng 3 năm 2016). “Azealia Banks Releases Slay-Z Mixtape”. Pitchfork Media. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2016.
  30. ^ “Azealia Banks – Chart History – Dance Club Songs”. Billboard. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2018.
  31. ^ “Azealia Banks – Chart History – Dance/Electronic Digital Songs”. Billboard. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2018.
  32. ^ Azealia Banks on the UK Singles Chart:
  33. ^ Azealia Banks on the UK R&B Singles Chart:
  34. ^ “Azealia Banks feat. Lazy Jay – 212”. Ultratop. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2015.
  35. ^ “Azealia Banks Ft. Lazy Jay – 212”. Stichting Nederlandse Top 40. Bản gốc lưu trữ 22 Tháng Một năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2015.
  36. ^ “Discography Azealia Banks”. irishcharts.com. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2015.
  37. ^ “Azealia Banks – Chart History – Japan Hot 100”. Billboard. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2015.
  38. ^ “ARIA Top 100 Singles – Week Commencing 30th April 2012” (PDF). ARIA Charts. ngày 30 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2014.
  39. ^ Azealia Banks on the Australian Urban Singles Chart:
  40. ^ Carley, Brennan (ngày 22 tháng 9 năm 2014). “Listen to the Azealia Banks Single We've Always Deserved, 'Chasing Time'. Spin. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2015.
  41. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Anh Quốc – Azealia Banks ft Lazy Jay – 212” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. ngày 22 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2014. Chọn single trong phần Format. Nhập 212 vào mục "Search BPI Awards" rồi ấn Enter.
  42. ^ “Behind the Scenes: Azealia Banks Liquorice”. HungerTV. ngày 30 tháng 7 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2015.
  43. ^ “Azealia Banks – Liquorice”. Ultratop. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2015.
  44. ^ Minsker, Evan; Snapes, Laura (ngày 11 tháng 3 năm 2013). “Listen: Azealia Banks: 'Yung Rapunxel'. Pitchfork Media. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2015.
  45. ^ Minsker, Evan (ngày 27 tháng 7 năm 2014). “Azealia Banks Shares New Single 'Heavy Metal and Reflective'. Pitchfork Media. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2015.
  46. ^ Minsker, Evan (ngày 22 tháng 9 năm 2014). “Azealia Banks Shares New Track 'Chasing Time'. Pitchfork Media. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2015.
  47. ^ Camp, Zoe (ngày 31 tháng 3 năm 2015). “Azealia Banks is a Frozen Medusa in 'Ice Princess' Video”. Pitchfork Media. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2015.
  48. ^ Camp, Zoe (ngày 19 tháng 2 năm 2015). “Azealia Shares 'The Big Big Beat'. Pitchfork Media. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2015.
  49. ^ Cuby, Michael (ngày 5 tháng 6 năm 2016). “Azealia Banks Is Back In Full-Form for New Hip-Hop Track 'Chi Chi'. PAPER. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2016.https://genius.com/albums/Azealia-banks/Business-and-pleasure
  50. ^ Horowitz, Steven. “Azealia Banks Talks House-Inspired 'Anna Wintour' Single, 'Fantasea II' Album & State of Women in Hip-Hop”. Billboard. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2018.
  51. ^ Espinoza, Joshua (ngày 5 tháng 7 năm 2018). “Azealia Banks Drops New Single 'Treasure Island'. Complex. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2018.
  52. ^ “Azealia Banks Is Ice-Cold on Lex Luger-Produced Cut "Black Madonna". HYPEBEAST. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2020.
  53. ^ Patterson, Joseph (ngày 3 tháng 3 năm 2013). “Shystie, Azealia Banks, 'Control It': Exclusive Video Premiere”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2015.
  54. ^ “Childish Gambino - II. Earth: The Oldest Computer (The Last Night) ft. Azealia Banks”. Spotify. ngày 10 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2020.
  55. ^ “Video: QypjaQ feat. Azealia Banks – 'Blown Away'. Rap-Up. ngày 27 tháng 3 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2015.
  56. ^ “New Music: R. City feat. Beenie Man & Azealia Banks – 'I'm That... (Remix)'. Rap-Up. ngày 22 tháng 3 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2015.
  57. ^ “iTunes – Music – Trap Queen (feat. Azealia Banks, Quavo, Gucci Mane) – Single by Fetty Wap”. iTunes Store (GB). ngày 5 tháng 5 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2015.
  58. ^ “Newbody — Corporate Rave (Bonus)”. iTunes. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2019.
  59. ^ “Hynotic - Single by Paul Oakenfold feat. Azealia Banks”. Spotify. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2021.
  60. ^ “Chart Log UK – Weekly Update Sales 2013”. Zobbel. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2015.
  61. ^ “Official R&B Singles Chart Top 40”. Official Charts Company. ngày 6 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2015.
  62. ^ a b “Azealia Banks feat. Pharrell – ATM Jam”. Ultratop. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2015.
  63. ^ Stern, Lauren (ngày 22 tháng 1 năm 2013). “New Songs On The Radio – 2013”. PopCrush. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2015.
  64. ^ Dharmic X (ngày 23 tháng 10 năm 2013). “Azealia Banks Talks "ATM Jam" – "The Process" with Peter Rosenberg”. Complex. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2015.
  65. ^ Gaca, Anna (ngày 17 tháng 2 năm 2017). “Azealia Banks Returns to Twitter, Shares New Song "Crown" Produced by Lunice”. Spin. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2018.
  66. ^ Minsker, Evan. “Azealia Banks Releases New Song "Movin' On Up": Listen”. Pitchfork (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2020.
  67. ^ “Azealia Banks Is Ready to Seduce on New Track "Playhouse": Listen”. Highsnobiety (bằng tiếng Anh). ngày 12 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2020.
  68. ^ “Azealia Banks dials up the heat on her new single "Salchichon". The FADER (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2020.
  69. ^ “Azealia Banks Drops "Pyrex Princess" Amidst All The Drama”. HotNewHipHop (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2020.
  70. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ 7 Tháng tư năm 2020. Truy cập 24 tháng Năm năm 2021.
  71. ^ “Hear Azealia Banks cover Interpol's "Slow Hands". The FADER (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2020.
  72. ^ “Azealia Banks Reps For Dominican Independence Day With "Salchichon". HotNewHipHop (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2020.
  73. ^ Azealia Banks - Mamma Mia (bằng tiếng Anh), truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2020
  74. ^ “Azealia Banks returns with bilingual rap song "Nirvana". The FADER (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2021.