Dê trắng Nga
Tình trạng bảo tồn | FAO (2007): không rủi ro [1]:96 |
---|---|
Tên gọi khác |
|
Quốc gia nguồn gốc | |
Sử dụng | sữa |
Đặc điểm | |
Cân nặng | |
Tình trạng sừng | để sừng hoặc cắt gọn |
|
Dê trắng Nga (tiếng Nga: Русская белая коза) là giống dê lấy sữa có nguồn gốc từ nước Nga, giống dê này được bắt nguồn từ việc chọn lọc giống dê Saanen và dê Toggenburg nhập khẩu từ Thụy Sĩ rồi sau đó lai giống các giống dê bản địa khác nhau của Liên Xô cũ (USSR). Tên khác của giống này bao gồm dê cải tiến Bắc Nga, dê sữa Nga, dê lấy sữa Nga trắng (Russian White Dairy) và Russkava Belaya. Giống dê này thường được tìm thấy ở các vùng Leningrad, Gorki, Moscow và Yaroslav của nước Nga.
Nguồn gốc
[sửa | sửa mã nguồn]Dê sữa thuộc giống Saanen và Toggenburg, đã được nhập khẩu định kỳ từ Thụy Sĩ và các nước châu Âu khác, những giống này đã đóng góp nhiều cho việc hình thành các nhóm và dê khác nhau chuyên sản xuất sữa. Ngoài ra, người dân ở cả châu Âu và châu Á của Liên Xô đã nuôi dê sữa trong nhiều thế kỷ. Các nhóm dê riêng biệt đã hình thành dưới sự ảnh hưởng của các phương pháp nuôi và quản lý khác nhau, và dựa trên các nguồn gốc khác nhau.
Dê sữa ở miền trung và tây bắc nước Nga, có cấu trúc mạnh, khô và đặc tính cấu tạo hài hòa của loại sữa. Chúng có đầu nhẹ và hẹp. Cổ dài và thẳng và rộng. Những đầu núm vú lớn và trơn; phần tư cơ thể được phát triển cân xứng và núm vú rộng. Chân chúng chắc khoẻ. Các vị trí phía trước và chân sau. Bộ xương rất mạnh. Bộ lông bao gồm lông ngắn thô, hoặc đôi khi dài, lớp lông thường có màu trắng. Động vật này có thể không có sừng hoặc sừng. Chúng trông giống dê Saanen về mặt ngoại hình.
Đặc điểm
[sửa | sửa mã nguồn]Dê trắng của Nga rất mạnh mẽ và cứng cáp. Chúng có cấu trúc cơ thể mạnh và thô, cho phép chúng thích nghi với nhiều điều kiện thời tiết. Những con dê Nga trắng là một giống dê cỡ trung bình với một cái đầu hẹp và một lớp lông với những sơi lông thô đã được chọn lọc tỉnh chỉnh cho phù hợp khí hậu thay đổi để đối phó với mùa đông lạnh cũng như mùa hè nóng. Không chỉ là giống dê lấy sữa mà nó còn được sử dụng cho việc khai thác lớp da của nó, được sử dụng để sản xuất các loại da cao cấp. Giống dê này có thể được sừng hoặc sừng không có sừng, sừng của chúng có kích thước lớn và có hình lưỡi liềm.
Giống dê này cũng rất sung mãn vì hầu hết các con cái sẽ sinh đôi và đôi khi còn sinh tiếp tục với nhau hai lần mỗi năm. Những ghi chép cho thấy có nhũng con dê nái thậm chí còn sinh sáu đứa con bình thường cùng một lúc. Những con dê Nga trắng cũng có hàm lượng chất béo cao trong sữa của chúng với 4,2-5,3% và bình quân 550 kg/lứa. Điều này tuy nhiên được bù đắp bởi thực tế là chúng chỉ có sữa trong vòng 8 tháng.
Điển hình của nhóm này là các động vật được tìm thấy trên các khu đất riêng ở các khu Gorki, Leningrad, Moscow và Yaroslavl. Chúng là dê sữa điển hình. Trọng lượng sống của con cái trưởng thành là 50–60 kg, con đực 60–75 kg. Chúng trung bình 550 kg sữa /chu kỳ sữa và những động vật tốt nhất lên tới 1.000 kg. Hàm lượng chất béo cao tới 4,2-5,3%. Sữa Dê trắng của Nga có 4,2 đến 5,3% hàm lượng chất béo. Dê sữa có khả năng sinh sản tốt với 100 con cái sinh ra 190-220 con. Một số con dê non được sinh hai lần một năm.
Dê sữa ở vùng Bắc Caucasus, Crimea và Trung Á phần nào nhỏ hơn, có bộ lông có nhiều màu sắc nhưng có năng suất thấp hơn đối với dê ở vùng Gorki, Moscow, Yaroslavl và Leningrad. Ở đó có dê có lớp lông len, và do đó tiện ích kép: chúng được vắt sữa, và thêm vào đó, năng suất khoảng 100-150 g chất xơ/đầu con. Sản lượng sữa cho mỗi chu kỳ sữa trong khoảng 250–400 kg với hàm lượng chất béo 3,5-5,5%. Trọng lượng sống trung bình không vượt quá 40–42 kg. Tuy nhiên, dê sữa ở miền trung và tây bắc nước Nga có cấu trúc mạnh, khô và đặc tính cấu tạo hài hòa của loại sữa.
Chăn nuôi
[sửa | sửa mã nguồn]Để đảm bảo cho đàn dê cho năng suất sữa cao thì chế độ dinh dưỡng phải đảm bảo hơn, khẩu phần giàu chất dinh dưỡng hơn. Có thể nuôi chúng theo các phương thức khác nhau như: Nuôi thâm canh (tức là nuôi nhốt hoàn toàn). Hình thức nuôi bán thâm canh là phổ biến và phù hợp nhất. Chế độ nuôi dưỡng tốt phải đảm bảo cho dê mẹ phát triển bình thường khi có chửa, cho nhiều sữa trong thời kỳ cho sữa. Trước và sau khi đẻ phải cho dê ăn ngon, cháo cám. Năng suất, chất lượng sữa phụ thuộc vào thành phần và giá trị dinh dưỡng của thức ăn. Thiếu thức ăn thô xanh, nhất là thức ăn thô xanh non ngon thì chất lượng sữa sẽ kém.
Thừa thức ăn tinh hỗn hợp thì không chỉ chất lượng sữa giảm, chi phí thức ăn tăng. Chế độ nuôi dưỡng dê sữa phải căn cứ vào nhu cầu dinh dưỡng. Nhu cầu vật chất khô của dê mẹ vào cuối kỳ có chửa giảm còn trung bình 2 kg/100 kg thể trọng. Sau đó, nhu cầu vật chất khô tăng và đạt mức cao nhất vào tuần lễ thứ 14-15 (trung bình 4,5 kg/100 kg thể trọng), bình quan nhu cầu vật chất khô của dê sữa khoảng 5-6% thể trọng là thích hợp. Dê nặng 30 kg cho 1 lít sữa ngày cần cho ăn cỏ lá xanh 3 kg. Nhưng dê nặng 50 kg cho 2 lít sữa/ngày, cần cho ăn cỏ lá xanh 4 kg.
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Barbara Rischkowsky, D. Pilling (eds.) (2007). List of breeds documented in the Global Databank for Animal Genetic Resources, annex to The State of the World's Animal Genetic Resources for Food and Agriculture. Rome: Food and Agriculture Organization of the United Nations. ISBN 9789251057629. Accessed January 2017.
- ^ a b N.G. Dmitriev, L.K. Ernst (1989). Animal genetic resources of the USSR. FAO animal production and health paper 65. Rome: Food and Agriculture Organization of the United Nations. ISBN 9251025827. Archived 13 November 2009. Also available here, archived 29 September 2017.
<ref>
có tên “cabi” được định nghĩa trong <references>
không được đoạn văn bản trên sử dụng.