Gấu xám California

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Gấu xám California
Monarch, một mẫu vật được bảo quản, được trưng bày tại Viện hàn lâm Khoa học California.
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Chi (genus)Ursus
Loài (species)arctos
Phân loài (subspecies)californicus
Danh pháp đồng nghĩa
  • colusus Merriam, 1914
  • henshawi Merriam, 1914
  • klamathensis Merriam, 1914
  • magister Merriam, 1914
  • mendocinensis Merriam, 1916
  • tularensis Merriam, 1914

Gấu xám California (Ursus arctos californiaicus) là một phân loài tuyệt chủng của gấu xám Bắc Mỹ, là một giống gấu nâu Bắc Mỹ có kích thước rất lớn. "Grizzly" có thể có nghĩa là "Grizzled" (nghĩa là với những đầu lông vàng và xám) hoặc "truyền cảm hứng sợ hãi" (điều này thực sự được đánh vần là "grisly").[1] Tuy nhiên, sau khi nghiên cứu cẩn thận, nhà tự nhiên học George Ord đã chính thức phân loại nó vào năm 1815 - không phải vì lông, mà vì đặc tính của nó - tương tự như Ursus horribilis ("con gấu đáng sợ").[2] Về mặt di truyền, loài gấu xám Bắc Mỹ có mối quan hệ mật thiết với nhau,[3] về kích thước và màu sắc, gấu xám California giống như gấu xám Bắc Mỹ ở bờ biển phía nam Alaska. Ở California, nó được đặc biệt ngưỡng mộ vì vẻ đẹp, kích thước và sức mạnh. Grizzly trở thành một biểu tượng của Cộng hòa Bear Flag, một biệt danh gắn liền với nỗ lực ngắn ngủi của một nhóm người định cư Mỹ để tách khỏi Mexico vào năm 1846. Sau đó, lá cờ nổi loạn này trở thành nền tảng cho quốc kỳ California và sau đó California được gọi là "Bang Gấu."[4]

California vẫn có môi trường sống cho khoảng 500 con gấu xám.[5] Vào năm 2014, Dịch vụ Cá và Động vật hoang dã Hoa Kỳ đã nhận và từ chối đơn yêu cầu đưa những con gấu xám trở lại California.[6][7] Vào năm 2015, Trung tâm Đa dạng sinh học đã đưa ra một bản kiến ​​nghị nhằm vào cơ quan lập pháp tiểu bang California để đưa gấu xám trở lại tiểu bang.[8][9][10] Gấu xám California đã được coi là một loài điển hình trong việc con người nỗ lực tuyệt chủng, thông qua đề xuất sử dụng kỹ thuật nhân giống ngược, nhân bảndi truyền để tái tạo các loài đã tuyệt chủng.[11]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Wright, William Henry (1909). The Grizzly Bear: The Narrative of a Hunter-naturalist, Historical, Scientific and Adventurous. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2016.
  2. ^ Grisly indeed, Grizzly Island was aptly named". Daily Republic. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2011.
  3. ^ Miller, C.; Waits, L.; Joyce, P. (2006). “Phylogeography and mitochondrial diversity of extirpated brown bear (Ursus arctos) populations in the contiguous United States and Mexico”. Mol Ecol. 15 (14): 4477–85.
  4. ^ Storer, T.I.; Tevis, L.P. (1955). California Grizzly. Berkeley, CA: University of California Press. tr. 335. ISBN 0520205200.
  5. ^ Carroll, C.; R. F. Noss; N. H. Schumaker; P. C. Paquet (2001). David Maehr; Reed F. Noss; Jeffery L. Larkin (biên tập). Large Mammal Restoration: Ecological and Sociological Challenges in the 21st Century (ấn bản 1). Washington, DC: Island Press. tr. 25–46. ISBN 9781559638173. Is the return of the wolf, wolverine, and grizzly bear to Oregon and California biologically feasible?
  6. ^ Woody, Todd (20 tháng 6 năm 2014). “A New Move to Bring the Grizzly Bear Back to California”. TakePart. Participant Media. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2015.
  7. ^ “EDITORIAL: Grizzly bear homecoming?”. Fresno Bee. 19 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2015.[liên kết hỏng]
  8. ^ “Where are the Bears?”. Center for Biological Diversity. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2016.
  9. ^ Platt, John (28 tháng 7 năm 2015). “Waving the Flag for the Grizzly's Return to California”. TakePart. Participant Media. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2016.
  10. ^ Miller, Craig (ngày 2 tháng 5 năm 2016). “Move to Return Grizzly Bears to California Will Be an Uphill Push”. KQED Science. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2016.
  11. ^ Gross, Liza (ngày 5 tháng 6 năm 2013). “De-Extinction Debate: Should Extinct Species Be Revived?”. KQED Science. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2016.