Pháo kích

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lựu pháo D-20 152 mm trong Chiến tranh Iran-Iraq.

Pháo kích là hoạt động tấn công bằng hỏa lực của pháo binh nhắm vào các mục tiêu quân sự, hoặc cả mục tiêu dân sự của đối phương.

Hoạt động pháo kích tiến hành bởi lực lượng hải quân được gọi là hải kích, với các mục tiêu bắn phá trên biển hoặc ven bờ đất liền. Trong đó, một loại hải kích là hỗ trợ đổ bộ, chủ yếu nhằm vào các mục tiêu phòng thủ ven bờ của đối phương để hỗ trợ hỏa lực cho việc đổ bộ của thủy binh lục chiến.

Thuật ngữ[sửa | sửa mã nguồn]

Pháo kích là từ Hán Việt, kết hợp của pháo và kích[ghi chú 1], chỉ cách thức tấn công bằng việc sử dụng pháo bắn đạn pháo vào các mục tiêu xác định hoặc bắn rải rác bao trùm một khu vực.

Trong tiếng Anh, thuật ngữ cho hoạt động pháo binh này là Bombardment (Bắn phá), từ trước Thế chiến I, thuật ngữ này chỉ việc bắn phá các vật thể không phòng thủ hoặc không được bảo vệ, nhà cửa, công trình công cộng, v.v...Trọng tâm là chỉ sử dụng mô tả các cuộc tấn công của pháo binh vào pháo đài hoặc các vị trí kiên cố để chuẩn bị cho các cuộc tấn công của bộ binh.[1] Về sau, được sử dụng với hàm nghĩa rộng hơn, chỉ hoạt động tấn công của tên lửa và máy bay quân sự.

Pháo kích phối hợp[sửa | sửa mã nguồn]

Vào thế kỷ XVII, lối đánh phối hợp đánh gọng kìm hoặc đánh tạt sườn của kỵ binh với pháo kích của pháo binh là một chiến thuật cơ bản của quân đội Thụy Điển, thời Gustav II Adolf. Đó là một lối đánh kết hợp từ đội hình quân đội được tổ chức kết hợp, gồm pháo binh, các loại bộ binh khác nhau và kỵ binh. Pháo binh sẽ là lực lượng tấn công trọng tâm, được bố trí theo hàng, hướng trực diện với quân đối phương. Kỵ binh sẽ tấn công quân đối phương ở một hoặc hai bên cánh, khi đội hình của họ bị dồn ép lại với nhau, pháo binh sẽ nhả đạn trực diện để tiêu diệt. Trong khi bộ binh gồm lính giáo và lính hỏa mai sẽ xếp thành hàng phía trước để bảo vệ trong tình huống pháo binh bị tấn công, nhưng không phải là lực lượng tấn công chính. Đây là chiến thuật phối hợp tác chiến các binh chủng, kết hợp "vũ khí nóng" và "vũ khí lạnh", giữa súng hỏa mai và thương dài, tấn công kết hợp phòng thủ của các đơn vị bộ binh, và pháo binh giữ vai trò quan trọng nhất trong việc sử dụng sức mạnh hỏa pháo dưới sự hỗ trợ của kỵ binh.

Lối đánh này cũng tương tự chiến thuật pháo binh cơ bản của quân đội Napoleon sau này, vẫn là tấn công phối hợp giữa bộ binh, pháo binh và kỵ binh, được sử dụng trong các cuộc chiến tranh của Napoléon. Pháo binh sẽ là lực lượng tấn công quan trọng, được bố trí hướng trực diện với quân đối phương. Bộ binh sẽ tấn công trực diện vào đội hình quân đối phương dưới sự yểm trợ của pháo binh, trong nhiều trường hợp, kỵ binh sẽ tấn công bên cánh để dồn ép đội hình quân đối phương, giữ chặt đội hình ô vuông của họ, để hỗ trợ cho pháo binh bắn thẳng vào đội hình này.[2]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ "kích" là một danh từ chỉ một loại vũ khí (giống như cây thương), động từ là tấn công

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^  Một hoặc nhiều câu trước bao gồm văn bản từ một ấn phẩm hiện thời trong phạm vi công cộngChisholm, Hugh biên tập (1911). “Bombardment”. Encyclopædia Britannica. 4 (ấn bản 11). Cambridge University Press. tr. 182.
  2. ^ “French Artillery of the Napoleonic Wars”. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2020.