Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam)”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1: Dòng 1:
[[Hình:Christian flag.svg|nhỏ|phải|250px|Đoàn kỳ.]]
'''Hội thánh Tin Lành Việt Nam''' hoặc ''Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam)'' là một tổ chức giáo hội Tin Lành tại Việt Nam, là hệ phái lớn nhất trong năm hệ phái Tin Lành có tổ chức giáo hội tại nước này. Hội thánh có trụ sở tại [[Thành phố Hồ Chí Minh|TP.Hồ Chí Minh]].
'''Hội thánh Tin Lành Việt Nam''' hoặc ''Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam)'' là một tổ chức giáo hội Tin Lành tại Việt Nam, là hệ phái lớn nhất trong năm hệ phái Tin Lành có tổ chức giáo hội tại nước này. Hội thánh có trụ sở tại [[Thành phố Hồ Chí Minh|TP.Hồ Chí Minh]].


Hiện nay, dù danh xưng ''"Hội thánh Tin Lành Việt Nam"'' thường được chỉ đến Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam) nhưng đang có kế hoạch thống nhất Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam) và Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Bắc) thành cùng một tổ chức với tên gọi Hội thánh Tin Lành Việt Nam.<ref>[http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/248/0/3536/Tong_hoi_Hoi_thanh_Tin_lanh_Viet_Nam_mien_Bac_va_Tong_Lien Tổng hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) và Tổng Liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) chuẩn bị thống nhất tổ chức]</ref>
Hiện nay, dù danh xưng ''"Hội thánh Tin Lành Việt Nam"'' thường được chỉ đến Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam) nhưng đang có kế hoạch thống nhất Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam) và Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Bắc) thành cùng một tổ chức với tên gọi Hội thánh Tin Lành Việt Nam.<ref>[http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/248/0/3536/Tong_hoi_Hoi_thanh_Tin_lanh_Viet_Nam_mien_Bac_va_Tong_Lien Tổng hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) và Tổng Liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) chuẩn bị thống nhất tổ chức]</ref>
__TOC__

==Lịch sử==
==Lịch sử==
Xuất phát từ ''Hội thánh Tin Lành Đông Pháp'' năm 1927 và Hội thánh Tin Lành Việt Nam năm 1945, tới năm 1954 sau [[hiệp định Genève, 1954]], phần lớn các giáo sĩ và tín đồ Tin Lành di cư vào miền Nam nên tổ chức giáo hội ở phía nam được xem là sự tiếp nối của Hội thánh Tin Lành Việt Nam cũ.
Xuất phát từ ''Hội thánh Tin Lành Đông Pháp'' năm 1927 và Hội thánh Tin Lành Việt Nam năm 1945, tới năm 1954 sau [[hiệp định Genève, 1954]], phần lớn các giáo sĩ và tín đồ Tin Lành di cư vào miền Nam nên tổ chức giáo hội ở phía nam được xem là sự tiếp nối của Hội thánh Tin Lành Việt Nam cũ.

Phiên bản lúc 23:29, ngày 27 tháng 10 năm 2013

Đoàn kỳ.

Hội thánh Tin Lành Việt Nam hoặc Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam) là một tổ chức giáo hội Tin Lành tại Việt Nam, là hệ phái lớn nhất trong năm hệ phái Tin Lành có tổ chức giáo hội tại nước này. Hội thánh có trụ sở tại TP.Hồ Chí Minh.

Hiện nay, dù danh xưng "Hội thánh Tin Lành Việt Nam" thường được chỉ đến Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam) nhưng đang có kế hoạch thống nhất Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam) và Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Bắc) thành cùng một tổ chức với tên gọi Hội thánh Tin Lành Việt Nam.[1]

Lịch sử

Xuất phát từ Hội thánh Tin Lành Đông Pháp năm 1927 và Hội thánh Tin Lành Việt Nam năm 1945, tới năm 1954 sau hiệp định Genève, 1954, phần lớn các giáo sĩ và tín đồ Tin Lành di cư vào miền Nam nên tổ chức giáo hội ở phía nam được xem là sự tiếp nối của Hội thánh Tin Lành Việt Nam cũ.

Sau năm 1954, tại miền Bắc chỉ còn lại khoảng 10 mục sư, truyền đạo và khoảng 1000 tín đồ, tới năm 1958 khi sự thống nhất hai miền không diễn ra như dự định, các giáo sĩ, tín đồ ở miền Bắc đã lập ra giáo hội riêng với tên gọi là Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Bắc) do mục sư Dương Tự Ấp làm Hội trưởng, trụ sở đặt tại số 2 Ngõ Trạm, Hà Nội.

Tại miền Nam, với đại đa số giáo sĩ, tín đồ có mặt ở đây, hội thánh Tin Lành Việt Nam tiếp tục hoạt động tại các tỉnh thành miền Nam, trong thời kỳ đầu do chính sách ủng hộ Công giáo của Ngô Đình Diệm nên Tin Lành khó phát triển, tuy nhiên sau khi Diệm bị lật đổ và quân đội Mỹ vào miền Năm, đạo Tin Lành và Hội thánh có nhiều điều kiện phát triển.

Với sự hỗ trợ đầu tư của Hội truyền giáo C&MA, Hội thánh đã tập trung cho việc truyền giáo từ đồng bằng lên miền núi, từ thành thị đến nông thôn và đối với cả các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên.

Cùng với hoạt động truyền đạo, Hội thánh còn chú trọng đến các hoạt động từ thiện xã hội, năm 1957 thành lập Ủy ban cứu tế, năm 1959 xây dựng Bệnh viện Tin Lành Đà Lạt, năm 1960 xây dựng bệnh viện Tin Lành Pleiku và Chẩn Y viện Nha Trang,...

Về tổ chức, với sự tiếp nối Hội thánh Tin Lành Việt Nam từ năm 1945 nên hội thánh có ba cấp là Tổng liên hội, địa hạt và chi hội. Từ sau năm 1975, tổ chức thành 5 địa hạt.

Tại đại hội năm 2000, Đại hội đồng quyết định bỏ cấp địa hạt và chỉ còn 2 cấp hành chính là Tổng liên hội và Chi hội, tính đến nay Hội thánh có 1.059 chi hội hoạt động tại 32 tỉnh, thành phố phía nam và Ban trị sự Tổng liên hội với 23 mục sư, truyền đạo với Hội trưởng đứng đầu.[2]

Hội thánh Tin Lành Việt Nam được chính phủ Việt Nam công nhận có tư cách pháp nhân vào ngày 3 tháng 4 năm 2001.[3]Trụ sở Tổng liên hội hiện nay tại 155 Trần Hưng Đạo, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh

Hội trưởng qua các thời

Xem thêm

Liên kết ngoài

Ghi chú