Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Chấn (chuẩn tướng)”
Không có tóm lược sửa đổi |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 39: | Dòng 39: | ||
==Tham khảo== |
==Tham khảo== |
||
{{tham khảo}} |
{{tham khảo}} |
||
* Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011), ''Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa |
* Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011), ''Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa. |
||
{{thời gian sống|1931}} |
|||
[[Thể loại:Chuẩn tướng Việt Nam Cộng hòa]] |
[[Thể loại:Chuẩn tướng Việt Nam Cộng hòa]] |
||
[[Thể loại:Người Kiến An]] |
[[Thể loại:Người Kiến An]] |
||
[[Thể loại:Sinh 1931]] |
|||
[[Thể loại:Nhân vật còn sống]] |
Phiên bản lúc 23:51, ngày 29 tháng 11 năm 2015
Nguyễn Chấn | |
---|---|
Sinh | 1931 Kiến An, Bắc phần |
Thuộc | Quân lực Việt Nam Cộng hòa |
Năm tại ngũ | 1951-1974 |
Quân hàm | Chuẩn tướng |
Đơn vị | Công binh VNCH |
Chỉ huy | Quân đội Liên hiệp Pháp Quân đội Quốc gia Việt Nam Quân lực Việt Nam Cộng hòa |
Công việc khác | Thứ trưởng Bộ Canh nông |
Nguyễn Chấn (1931), nguyên là một tướng lĩnh trong ngành Công binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, mang quân hàm Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ khóa Sĩ quan Trừ bị đầu tiên và duy nhất được mở ra ở Bắc phần Việt Nam. Hầu hết thời gian tại ngũ, ông đã phục vụ cho ngành chuyên môn của mình và tuần tự từ chức vụ nhỏ nhất là Trung đội trưởng cho đến chức vụ cao nhất của ngành Công binh.
Tiểu sử & Binh nghiệp
Ông sinh vào tháng 3-1931 tại Kiến An, Duyên hải Bắc phần Việt Nam. Tốt nghiệp Chương trình Trung học Pháp tại Hải Phòng với bằng Thành chung
Năm 1951: Nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang quân số: 51/200.489. Theo học khóa Lê Lợi Trường Sĩ quan Trừ bị Nam Định (khai giảng: 1/10/1951, mãn khóa: 1/6/1952). Tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy. Ra trường, phục vụ trong Đại đội Công binh với chức Trung đội trưởng.
- Thời điểm này ngành Công binh mới chỉ được áp dụng quy chế ở cấp Đại đội và trực thuộc Nha Vật liệu Trung ương, đến năm 1953 mới được nâng thành cấp Tiểu đoàn.
Năm 1954: Sau khi ngành Công binh được nâng lên cấp Tiểu đoàn được một năm, ông được thăng cấp Trung úy và được lên làm Đại đội trưởng Đại đội Công binh Kiến tạo.
Quân đội Việt Nam Cộng hoà
Nắm 1955: Ông được chuyển sang phục vụ Quân đội Việt Nam Cộng hoà và ngành Công binh được thành lập Bộ chỉ huy độc lập, ông được giữ chức Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn Công binh Chiến đấu. Đến năm 1958, ông được thăng cấp Đại uý tại nhiệm và được cử làm Tiểu đoàn trưởng.
Năm 1963: Sau cuộc đảo chính Chính quyền Tổng thống Ngô Đình Diệm, ngày 2/11 ông được đặc cách thăng cấp Thiếu tá và được giữ chức Liên đoàn trưởng Liên đoàn Công binh, trách nhiệm của Liên đoàn là yểm trợ cho một Vùng chiến thuật.
Năm 1964: Ngành Công binh được tổ chức lại cơ cấu và nâng thành Cục Công binh trực thuộc Tổng cục Tiếp vận, ông được cử giữ chức Tham mưu trưởng trong Bộ chỉ huy Cục Công binh. Qua tháng 6 năm 1965, ông được thăng cấp Trung tá và được lên chức Chỉ huy phó Cục Công binh.
Năm 1967: Ông được thăng cấp Đại tá và được bổ nhiệm làm Cục trưởng Cục Công binh thay thế Chuẩn tướng Phạm Đăng Lân được xét cho giải ngũ.
Năm 1970: Ông được vinh thăng Chuẩn tướng tại nhiệm.
Năm 1973: Tháng 7, ông được lệnh bàn giao chức vụ Cục trưởng Công binh lại cho Chuẩn tướng Nguyễn Văn Chức, để chuyển đến phục vụ tại Bộ Tổng Tham mưu.
Năm 1974: Ông được biệt phái qua Bộ Canh nông với chức vụ Phụ tá đặc biệt cho Tổng trưởng (ngang cấp Thứ trưởng).
1975
Biến cố 30/4 xẩy ra, ông cùng gia đình di tản ra nước ngoài và định cư tại Toronto, Canada.
Tham khảo
- Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011), Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.