Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Văn Thành Cao”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 53: Dòng 53:
[[Thể loại:Thiếu tướng Việt Nam Cộng hòa]]
[[Thể loại:Thiếu tướng Việt Nam Cộng hòa]]
[[Thể loại:Người Tây Ninh]]
[[Thể loại:Người Tây Ninh]]
[[Thể loại:Cao Đài]]
[[Thể loại:Đạo Cao Đài]]

Phiên bản lúc 11:46, ngày 30 tháng 11 năm 2015

Văn Thành Cao
Sinh1922
Tây Ninh, VN
Mất?
Thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Năm tại ngũ1955-1975
Quân hàm Thiếu tướng
Đơn vịTổng cục Chiến tranh Chính trị
Chỉ huyQuân đội Quốc gia
Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Công việc khácNguyên Tổng chỉ huy Lực lượng Liên minh Cao Đài

Văn Thành Cao (1922-?), nguyên là một tướng lĩnh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, mang quân hàm Thiếu tướng. Ông xuất thân là một sĩ quan của Lực lượng vũ trang của Giáo phái Cao Đài, về sau hợp tác với chính phủ Ngô Đình Diệm, từng giữ đến chức vụ Tổng cục phó Tổng cục Chiến tranh Chính trị cho đến ngày chính thể Việt Nam Cộng hòa sụp đổ.

Thân thế

Ông sinh vào năm 1922 tại Tây Ninh, Nam Kỳ thuộc Pháp. Tuy nhiên, theo Hội Ái hữu Gò Công tại Hoa Kỳ thì ông là người làng Vĩnh Thạnh, Gò Công. Khoảng năm 1939-1940, ông được cho là đã được Quân đội Pháp huấn luyện và đào tạo trở thành sĩ quan tại trường Nội ứng Nghĩa đinh và Nội ứng Nghĩa quân ở Cái Vồn (bấy giờ thuộc tỉnh Cần Thơ). Cùng học với ông ở đây có một tín đồ Cao Đài trẻ là Trình Minh Thế.[1]

Sau cuộc trấn áp đạo Cao Đài của người Pháp, người Nhật đã can thiệp cho mở lại Tòa Thánh Tây Ninh, đổi lại việc Giáo sư Thượng Vinh Thanh (Trần Quang Vinh), người tạm thời thay mặt Hộ pháp Phạm Công Tắc lãnh đạo các tín đồ Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh, tập hợp các tín đồ hợp tác với quân đội Nhật. Khá đông tín đồ Cao Đài được tuyển làm nhân công của xưởng đóng tàu Nichinan của quân đội Nhật tại Nam Bộ. Một lực lượng bán vũ trang Cao Đài được ra đời với tên gọi Nội ứng nghĩa binh, dưới danh nghĩa được Hoàng thân Cường Để chỉ thị thành lập để liên minh với Nhật Bản. Ông cùng với Trình Minh Thế cùng gia nhập lực lượng này với cấp bậc Vệ úy. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, lực lượng bán vũ trang Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh mặc đồng phục trắng, đội mũ bê-rê, vũ trang bằng gậy tre vọt nhọn tham gia hỗ trợ Nhật đảo chính Pháp tại Sài Gòn.

Tuy nhiên, người Nhật thất trận và phải đầu hàng, chấm dứt Thế chiến thứ 2. Khi Pháp tái chiếm Nam Bộ, các nhóm lực lượng vũ trang Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh tham chiến tại các mặt trận số 1 và số 2, chiến đấu ở mặt Đông và Bắc Sài Gòn. Tuy nhiên, trước sức mạnh của quân Pháp, các mặt trận nhanh chóng tan vỡ. Nhiều đơn vị vũ trang tan rã, hoặc trở thành những lực lượng quân phiệt cát cứ, không chịu sự chỉ huy thống nhất. Một số chức sắc cao cấp và chỉ huy quân sự Cao Đài đã đưa lực lượng của mình tự rút về Tây Ninh và tự xây dựng các căn cứ để bảo vệ Tòa Thánh Tây Ninh.

Hoạt động trong lực lượng quân sự Cao Đài

Khoảng tháng 11 năm 1946, các chỉ huy quân sự Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh bắt tay hòa hoãn với Pháp, cùng nhau tiêu diệt Việt Minh. Hộ pháp Phạm Công Tắc về nước, thành lập Quân đội Cao Đài. Ông được phong cấp Đại úy và được giữ chức Chỉ huy trưởng một đơn vị Cao Đài đặt bản doanh tại Sa Đéc. Năm 1948, được thăng cấp Thiếu tá tại nhiệm.

Ngày 7 tháng 6 năm 1951, Đại tá Trình Minh Thế, bấy giờ đang giữ chức Tham mưu trưởng Quân đội Cao Đài, tuyên bố ly khai lực lượng quân đội dưới quyền tướng Nguyễn Văn Thành, đưa các lực lượng dưới quyền vào rừng Bưng Rồ (Tây Ninh), lập chiến khu Bù Lu, với danh nghĩa Mặt trận Liên minh Quốc gia Kháng chiến, gọi là là Liên Minh. Ông cũng đưa quân theo về và được phong cấp Trung tá, giữ chức Phó tổng tư lệnh Lực lượng Liên Minh.

Năm 1954, cựu Thượng thư Ngô Đình Diệm về nước và được Quốc trưởng Bảo Đại chỉ định làm Thủ tướng. Nhằm xây dựng một chính quyền vững chắc ở miền Nam, khả dĩ đối trọng với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc, với sự hỗ trợ của người Mỹ, Thủ tướng Diệm một mặt quy tụ lực lượng chống Cộng, mặt khác trấn áp các thế lực đối lập. Thông qua trùm tình báo Edward Lansdale, Lực lượng Liên Minh đồng ý hợp tác với chính phủ Ngô Đình Diệm. Ngày 13 tháng 2 năm 1955, Lực lượng Liên Minh làm lễ chính thức sát nhập vào Quân đội Quốc gia Việt Nam, Tư lệnh Trình Minh Thế được phong hàm Thiếu tướng, ông được phong cấp Đại tá. Ngay sau buổi lễ, ông trở về Đồng Tháp để tổ chức lại các đơn vị dưới quyền.

Ngay sau khi sát nhập, Thủ tướng Diệm đã điều động các đơn vị Liên Minh phối hợp với quân chính phủ tấn công các lực lượng vũ trang đối lập. Ngày 3 tháng 5 năm 1955, khi đang ngồi trên xe Jeep chỉ huy tiến quân qua cầu Tân Thuận, tướng Trình Minh Thế bất ngờ tử trận. Thủ tướng Diệm lập tức truy thăng tướng Thế lên Trung tướng, ông được vinh thăng hàm Thiếu tướng và được cử giữ chức Tổng chỉ huy Lực lượng Liên minh thay tướng Thế.

Dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa

Sau khi chính thể Việt Nam Cộng hòa được thành lập, ông vẫn được chính phủ trọng dụng, được cử làm Chỉ huy trưởng Chiến dịch Bình định Miền Đông (đặt bản doanh tại Tây ninh), nhằm dứt điểm xu hướng ly khai của các chức sắc cao cấp Cao Đài Tây Ninh. Ngày 19 tháng 2 năm 1956, ông chỉ huy Lực lượng quân Chính phủ tiến vào Tòa Thánh Tây Ninh. Trước đó, ngày 16 tháng 2, Hộ pháp Phạm Công Tắc đã cùng một số chức sắc thân tín như Lê Văn Tất, Hồ Tấn Khoa… đào thoát sang tị nạn chính trị ở Campuchia. Mặc dù vậy, trong bản tuyên ngôn gửi các tín đồ Cao Đài, ông vẫn được Hộ pháp Phạm Công Tắc gửi gắm "phải tiếp tục thi hành phận sự mà Bần Đạo đã giao phó".[2]

Năm 1960, ông được cử giữ chức Giám đốc sở Khảo cứu phản Du kích chiến (Phòng Nghiên cứu Du kích chiến). Đến trung tuần tháng 2 năm 1961, ông được cử làm Đại biểu Chính phủ đơn vị miền đông Nam phần. Ngày 23 tháng 3 năm 1962, chính quyền Tổng thống Diệm phát động chính sách Ấp chiến lược. Chương trình được thực hiện thí điểm tại 5 ấp ở Bến Cát (Bình Dương) với tên gọi Chiến dịch Bình Minh (Sunrise), với người phụ trách là Trung tá Albert Phạm Ngọc Thảo. Ông được cử làm Chỉ huy trưởng của chương trình.[3]

Trong cuộc đảo chính năm 1963, ông không tham dự vào âm mưu đảo chính và cũng không giữ một vai trò nào.[4]

Do sự can thiệp của các lãnh tụ Phật giáo, đứng đầu bởi Thượng tọa Thích Tâm Châu, ngày 6 tháng 6 năm 1966, ông cùng 9 chính khách dân sự khác được tham gia các cuộc họp của Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia.[5]

Thượng tuần tháng 6 năm 1973, ông được cử giữ chức Tổng cục phó Tổng cục Chiến tranh Chính trị và ở chức vụ này cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Những năm cuối đời

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông trở về nhà và đến ngày 3 tháng 5 năm kế đó ông ra trình diện chính quyền mới. Sau đó, ông bị đưa đi lưu đày cải tạo cho đến ngày 12 tháng 2 năm 1988 mới được trả tự do.

Ông được xuất cảnh theo diện H.O và định cư tại Houston, Hoa Kỳ.

Chú thích

  1. ^ Nguyễn Kỳ Phong, Một tài liệu về Trường Võ bị Quốc gia và các sĩ quan tốt nghiệp, dẫn từ James Nach, Origins of the Vietnamese National Army, Its Officer Corps and Its Military Schools.
  2. ^ Tuyên ngôn ngày 23 tháng 3 năm 1956 của Hộ pháp Phạm Công Tắc.
  3. ^ Chánh Đạo, Việt Nam Niên biểu 1939-1975, Tập I-C: 1955-1963, Nxb Văn Hóa tại Houston TX 2000, tr. 251
  4. ^ "... When asked Gheneral Van Thanh Cao, the delegate, was is on any of the planing, Don said Cao left completely out. He is considered by the other Generals to be a civilian". (Điện của Phân bộ CIA tại Sài Gòn gửi về Trụ sở ngày 24 tháng 8 năm 1963)
  5. ^ Trần Gia Phụng, Diễn tiến Biến động Miền Trung

Tham khảo

  • Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011), Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.