Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thiên nhiên châu Nam Cực”

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 19: Dòng 19:
==Hệ động vật==
==Hệ động vật==
[[File:Antarctic krill (Euphausia superba).jpg|thumb|left|''[[Euphausia superba]]'' là một [[loài chủ chốt]], giúp cấu thành lưới thức ăn khu vực châu Nam Cực.]]
[[File:Antarctic krill (Euphausia superba).jpg|thumb|left|''[[Euphausia superba]]'' là một [[loài chủ chốt]], giúp cấu thành lưới thức ăn khu vực châu Nam Cực.]]
Hệ động vật đa dạng về kích thước, từ cỡ nhữ ốc biển, giun, hải sâm đến cá voi. Động vật lớn thường di trú giữa hai vùng cực, còn động vật nhỏ lan rộng nhờ dòng biển.<ref>{{Cite news |last=Kinver |first=Mark |date=15 February 2009 |title=Ice oceans 'are not poles apart' |newspaper=BBC News|publisher=British Broadcasting Corporation |url=http://news.bbc.co.uk/2/hi/science/nature/7888558.stm |accessdate=22 October 2011}}</ref> Động vật châu Nam Cực thích nghi để tránh mất nhiệt, thông qua cấu trúc như lớp lông chịu gió hay mỡ dưới da.<ref name="AADadapt">{{cite web|url=http://www.antarctica.gov.au/about-antarctica/wildlife/animals/adapting-to-the-cold |title=Adapting to the cold |author=Australian Antarctic Division |publisher=Government of Australia |accessdate=5 April 2013 |archiveurl=https://web.archive.org/web/20130118055107/http://www.antarctica.gov.au/about-antarctica/wildlife/animals/adapting-to-the-cold |archivedate=18 January 2013 |url-status=live}}</ref> Dưới biển, có chí ít 235 loài động vật sống ở vùng cực (vùng Bắc Cực và Nam Cực).
Hệ động vật đa dạng về kích thước, từ cỡ nhữ ốc biển, giun, hải sâm đến cá voi. Động vật lớn thường di trú giữa hai vùng cực, còn động vật nhỏ lan rộng nhờ dòng biển.<ref>{{Cite news |last=Kinver |first=Mark |date=15 February 2009 |title=Ice oceans 'are not poles apart' |newspaper=BBC News|publisher=British Broadcasting Corporation |url=http://news.bbc.co.uk/2/hi/science/nature/7888558.stm |accessdate=22 October 2011}}</ref> Động vật châu Nam Cực thích nghi để tránh mất nhiệt, thông qua cấu trúc như lớp lông chịu gió hay mỡ dưới da.<ref name="AADadapt">{{cite web|url=http://www.antarctica.gov.au/about-antarctica/wildlife/animals/adapting-to-the-cold |title=Adapting to the cold |author=Australian Antarctic Division |publisher=Government of Australia |accessdate=5 April 2013 |archiveurl=https://web.archive.org/web/20130118055107/http://www.antarctica.gov.au/about-antarctica/wildlife/animals/adapting-to-the-cold |archivedate=18 January 2013 |url-status=live}}</ref>


Hoang mạc lạnh châu Nam Cực có hệ động vật nghèo nàn bậc nhất thế giới. Động vật có xương sống chỉ sống trên BĐNC và CĐCCNC, và cả ở đó số loài cũng ít ỏi.<ref name="BASanimals">{{cite web|url=http://www.antarctica.ac.uk/about_antarctica/wildlife/land_animals/index.php |title=Land Animals of Antarctica |author=British Antarctic Survey |publisher=Natural Environment Research Council |accessdate=18 March 2013 |archiveurl=https://web.archive.org/web/20121122145509/http://www.antarctica.ac.uk/about_antarctica/wildlife/land_animals/index.php |archivedate=22 November 2012 |url-status=live}}</ref> Châu Nam Cực (tính cả CĐCCNC) không có loài động vật có vú, bò sát, hay lưỡng cư bản xứ nào. Hoạt động của con người đã đem đến vài [[loài du nhập|loài ngoại lai]] như chuột nhắt, chuột cống, gà, thỏ, mèo, heo, cừu, bò, tuần lộc ([[đảo Nam Georgia]]), cùng nhiều loài cá.<ref name="BASanimals"/> Động vật không xương sống, chẳng hạn bọ cánh cứng, cũng được con người mang đến.<ref name="AADinvertebrates"/>
Hoang mạc lạnh châu Nam Cực có hệ động vật nghèo nàn bậc nhất thế giới. Động vật có xương sống chỉ sống trên BĐNC và CĐCCNC, và cả ở đó số loài cũng ít ỏi.<ref name="BASanimals">{{cite web|url=http://www.antarctica.ac.uk/about_antarctica/wildlife/land_animals/index.php |title=Land Animals of Antarctica |author=British Antarctic Survey |publisher=Natural Environment Research Council |accessdate=18 March 2013 |archiveurl=https://web.archive.org/web/20121122145509/http://www.antarctica.ac.uk/about_antarctica/wildlife/land_animals/index.php |archivedate=22 November 2012 |url-status=live}}</ref> Châu Nam Cực (tính cả CĐCCNC) không có loài động vật có vú, bò sát, lưỡng cư sống trên cạn bản xứ nào. Hoạt động của con người đã đem đến vài [[loài du nhập|loài ngoại lai]] như chuột nhắt, chuột cống, gà, thỏ, mèo, heo, cừu, bò, tuần lộc ([[đảo Nam Georgia]]), cùng nhiều loài cá.<ref name="BASanimals"/> Động vật không xương sống, chẳng hạn bọ cánh cứng, cũng được con người mang đến.<ref name="AADinvertebrates"/>


Quần xã động vật nơi đáy nước đa dạng và dày đặc hơn, với trường hợp ghi nhận tới 155.000 cá thể động vật trên {{convert|1|m2|sqft|1}}. Do môi trường nơi nền biển hao hao nhau khắp miền Nam Cực, có hơn trăm loài mà đâu đâu trong vùng bờ biển châu Nam Cực cũng có mặt; đây là sự lan rộng hiếm thấy đối với cộng đồng sinh vật lớn. Những trường hợp loài khổng lồ biển sâu (tức trường hợp một loài động vật to hơn nhiều so với loài họ hàng sống chỗ nước ấm hơn) có thể được ghi nhận trong vùng nước châu Nam Cực.<ref name="AADseabed"/><ref name=PolarGigantism>{{cite web|url=https://www.polartrec.com/expeditions/polar-gigantism-in-antarctica |title=Polar Gigantism in Antarctica |publisher=Polar Treca |accessdate=29 December 2017 }}</ref><ref name=Chapelle1999>{{cite journal|author1=Chapelle, G.|author2=L.S. Peck, J.T.|year=1999|title=Polar gigantism dictated by oxygen availability | journal=Nature|volume=399|issue=6732|pages=114–115|doi=10.1038/20099|bibcode=1999Natur.399..114C}}</ref> Sự khổng lồ này có lẽ là do nước lạnh, giàu ôxy, đi kèm với tốc độ trao đổi chất thấp trong môi trường lạnh lẽo.<ref name=PolarGigantism/><ref name=Chapelle1999/>
Quần xã động vật nơi đáy nước đa dạng và dày đặc hơn, với trường hợp ghi nhận tới 155.000 cá thể động vật trên {{convert|1|m2|sqft|1}}. Do môi trường nơi nền biển hao hao nhau khắp miền Nam Cực, có hơn trăm loài mà đâu đâu trong vùng bờ biển châu Nam Cực cũng có mặt; đây là sự lan rộng hiếm thấy đối với cộng đồng sinh vật lớn. Những trường hợp loài khổng lồ biển sâu (tức trường hợp một loài động vật to hơn nhiều so với loài họ hàng sống chỗ nước ấm hơn) có thể được ghi nhận trong vùng nước châu Nam Cực.<ref name="AADseabed"/><ref name=PolarGigantism>{{cite web|url=https://www.polartrec.com/expeditions/polar-gigantism-in-antarctica |title=Polar Gigantism in Antarctica |publisher=Polar Treca |accessdate=29 December 2017 }}</ref><ref name=Chapelle1999>{{cite journal|author1=Chapelle, G.|author2=L.S. Peck, J.T.|year=1999|title=Polar gigantism dictated by oxygen availability | journal=Nature|volume=399|issue=6732|pages=114–115|doi=10.1038/20099|bibcode=1999Natur.399..114C}}</ref> Sự khổng lồ này có lẽ là do nước lạnh, giàu ôxy, đi kèm với tốc độ trao đổi chất thấp trong môi trường lạnh lẽo.<ref name=PolarGigantism/><ref name=Chapelle1999/>

===Cá===
So với những vùng biển khác, [[Nam Băng Dương]] có khá ít họ cá.<ref name=Eastman2005>{{cite journal|author1=Eastman, J.T.|year=2005|title=The nature of the diversity of Antarctic fishes | journal=Polar Biol|volume=28|issue=2|pages=93–107|doi=10.1007/s00300-004-0667-4}}</ref> Họ giàu về số loài nhất là [[Liparidae]], rồi đến [[Nototheniidae]]<ref name=Eastman1998>{{cite journal|author1=Eastman, J.T.|author2=M.J. Lannoo|year=1998|title=Morphology of the Brain and Sense Organs in the Snailfish Paraliparis devriesi: Neural Convergence and Sensory Compensation on the Antarctic Shelf | journal=Journal of Morphology|volume=237|issue=3|pages=213–236|doi=10.1002/(sici)1097-4687(199809)237:3<213::aid-jmor2>3.0.co;2-#}}</ref> và [[Zoarcidae]]. Ba họ này chiếm xấp xỉ {{frac|9|10}} trên tổng số chừng 320 loài cá Nam Băng Dương đã mô tả. Hơn nữa, vẫn còn hàng chục loài chưa mô tả, đa phần thuộc về họ Liparidae. Nếu chỉ tính cá ở thềm lục địa và dốc biển, có hơn 220 loài với Nototheniidae chiếm số đông, cả về số loài (hơn 100) lẫn [[sinh khối]] (trên 90%).<ref name=Eastman2005/> Liparidae ''spp.'' và Zoarcidae ''spp.'' sống nơi nước sâu là chính, còn Nototheniidae ''spp.'' ưa chỗ nước nông.<ref name=Eastman1998/><ref>{{cite web|url=http://www.antarctica.ac.uk/about_antarctica/wildlife/fish/index.php |title=Fish and Squid |author=British Antarctic Survey |publisher=Natural Environment Research Council |archiveurl=https://web.archive.org/web/20121009234621/http://www.antarctica.ac.uk/about_antarctica/wildlife/fish/index.php |archivedate=9 October 2012 |url-status=dead}}</ref> Ngoài ra, ở Nam Băng Dương cũng có mặt các họ sau: [[Myxinidae]], [[Petromyzontidae]], [[Rajidae]], [[Carapidae]], [[Moridae]], [[Muraenolepididae]], [[Gadidae]], [[Congiopodidae]], [[Bathylutichthyidae]], [[Tripterygiidae]], [[Achiropsettidae]]. 90% loài cá sống trong [[vùng hội tụ châu Nam Cực]] là loài đặc hữu.<ref name=Eastman2005/>

==== Nototheniidae ====
Họ Nototheniidae nằm trong phân bộ [[Notothenioidei]]. Phân bộ này gồm nhiều loài có [[protein chống đông]] trong máu và mô, cho phép chúng sống trong vùng nước nhiệt độ dưới {{convert|0|C|F|abbr=on}} một chút.<ref name="AADfish">{{cite web|url=http://www.antarctica.gov.au/about-antarctica/wildlife/animals/fish |title=Fish |author=Australian Antarctic Division |publisher=Government of Australia |accessdate=5 April 2013 |archiveurl=https://web.archive.org/web/20130319154530/http://www.antarctica.gov.au/about-antarctica/wildlife/animals/fish |archivedate=19 March 2013 |url-status=live}}</ref><ref name=Cheng2003>{{cite journal|author1=Cheng, C.-H.C.|author2=L. Chen|author3=T.J. Near|author4=Y. Jin|year=2003|title=Functional Antifreeze Glycoprotein Genes in Temperate-Water New Zealand Nototheniid Fish Infer an Antarctic Evolutionary Origin | journal=Mol. Biol. Evol.|volume=20|issue=11|pages=1897–1908|doi=10.1093/molbev/msg208|pmid=12885956}}</ref> Vài loài Liparidae và Zoarcidae cũng có protein chống đông.<ref>{{cite journal|author1=Jung, A.|author2=P. Johnson|author3=J.T. Eastman|author4=A.L. Devries|year=1995|title=Protein content and freezing avoidance properties of the subdermal extracellular matrix and serum of the Antarctic snailfish, Paraliparis devriesi | journal=Fish Physiol Biochem.|volume=14|issue=1|pages=71–80|doi=10.1007/BF00004292|pmid=24197273}}</ref><ref>{{Cite news |last=Stauffer |first=L.B. |date=12 January 2011 |title=Researchers show how one gene becomes two (with different functions) |publisher=Illinois News Bureau |url=https://news.illinois.edu/view/6367/205451 |accessdate=29 December 2017}}</ref>

Hai loài trong chi ''[[Dissostichus]]'' (''[[Dissostichus mawsoni|D. mawsoni]]'' và ''[[Dissostichus eleginoides|D. eleginoides]]'') chắc chắn là hai loài cá lớn nhất Nam Băng Dương. Hai loài này sống trên nền biển, từ nơi nước khá nông đến chỗ sâu {{convert|3000|m|ft|abbr=on}}, đạt chiều dài đến {{convert|2|m|ft|abbr=on}}, nặng {{convert|100|kg|lb|abbr=on}}, tuổi thọ đến 45 năm.<ref name="AADfish"/><ref>{{FishBase genus | genus = Dissostichus| month = December | year = 2017}}</ref> ''D. mawsoni'' sống gần bờ trong khi ''D. eleginoides'' ưa vùng nước cận châu Nam Cực ấm áp hơn. Hai loài này là cá thương mại, song việc đánh bắt quá mức đang ảnh hưởng đến số lượng của chúng.<ref name="AADfish"/>

===Chim===
[[File:Wonder albat.jpg|thumb|''[[Diomedea exulans]]'' trên [[đảo Nam Georgia]]]]
Những bờ biển đầy đá sỏi trên đất liền châu Nam Cực và những hòn đảo ngoài khơi là nơi xây tổ cho 100 triệu cá thể chim mỗi mùa xuân. Số này gồm một số loài [[hải âu mày đen]], mòng biển và nhàn.<ref name="AADbirds">{{cite web|url=http://www.antarctica.gov.au/about-antarctica/wildlife/animals/flying-birds |title=Flying Birds |author=Australian Antarctic Division |publisher=Government of Australia |accessdate=6 April 2013 |archiveurl=https://web.archive.org/web/20130319154403/http://www.antarctica.gov.au/about-antarctica/wildlife/animals/flying-birds |archivedate=19 March 2013 |url-status=live}}</ref> ''[[Anthus antarcticus]]'' trong [[họ Chìa vôi]] là loài đặc hữu [[đảo Nam Georgia]] cùng những đảo lân cận.

[[Chim cánh cụt]] hầu như chỉ sống trên [[bán cầu nam]] (ngoại lệ duy nhất là [[chim cánh cụt Galápagos]] sống ngay trên đường xích đạo). Bốn trong số 18 loài chim cánh cụt sống, sinh đẻ trên đất liền châu Nam Cực và các đảo ven bờ. Bốn loài khác sống trên CĐCCNC.<ref name="AADpenguins">{{cite web|url=http://www.antarctica.gov.au/about-antarctica/wildlife/animals/penguins |title=Penguins |author=Australian Antarctic Division |publisher=Government of Australia |accessdate=6 April 2013 |archiveurl=https://web.archive.org/web/20130319154517/http://www.antarctica.gov.au/about-antarctica/wildlife/animals/penguins |archivedate=19 March 2013 |url-status=live}}</ref> [[Chim cánh cụt hoàng đế]] là loài động vật duy nhất sinh sản trên đất liền châu Nam Cực vào mùa đông.<ref name="AADadapt"/>


== Nguồn tham khảo ==
== Nguồn tham khảo ==

Phiên bản lúc 14:20, ngày 26 tháng 9 năm 2019

Chim cánh cụt hoàng đế (Aptenodytes forsteri) là động vật duy nhất sinh sản ở đất liền châu Nam Cực vào mùa đông.

Thiên nhiên châu Nam Cực là nơi cư ngụ cho sinh vật ái cực, thích ứng với sự khô cằn, nhiệt độ thấp, sự trần trụi thường thấy ở châu Nam Cực. Có một sự tương phản giữa khí hậu khắc nghiệt trong nội địa châu Nam Cực với điều kiện khí hậu vẫn tương đối "dịu" trên bán đảo Nam Cực hay trên các hòn đảo cận châu Nam Cực (nơi có khí hậu ấm áp hơn cùng sự dồi dào nước dạng lỏng). Đa phần mặt biển quanh đất liền phủ băng. Trái lại, lòng biển là môi trường sống ổn định hơn, cả trong cột nước lẫn trên đáy biển.

Châu Nam Cực nghèo về đa dạng sinh học nếu so với các châu lục khác. Sự sống trên cạn tập trung dọc miền duyên hải. Chim biết bay làm tổ trên vùng bờ biển phần nào mát dịu hơn của bán đảo Nam Cực (BĐNC) và các đảo cận châu Nam Cực (CĐCCNC). Có tám loài chim cánh cụt, bảy loài chân màng cư ngụ trên châu Nam Cực-CĐCCNC; Nam Băng Dương là nơi sinh sống của 10 loài cá heo-cá voi, nhiều loài trong số này là loài di trú. Có rất ít loài động vật không xương sống trên đất liền, nhưng vài loài này lại có mật độ sống dày đặc. Dưới biển, động vật không xương sống cũng có mật độ cao – Euphausia superba kết thành bầy lớn dày đặc vào mùa hè. Hơn nữa, quần xã động vật vùng đáy nước cũng hiện diện.

Trên 1000 loài nấm đã được ghi nhận trên và quanh châu Nam Cực. Mấy loài nấm lớn hơn chỉ sống trên CĐCCNC. Tương tự, hầu hết thực vật chỉ mọc trên CĐCCNC và rìa tây BĐNC. Có vài loài rêuđịa y bám lấy vùng nội địa khô cằn. Quanh châu Nam Cực còn có tảo và sinh vật phù du khác – thứ tạo nên cơ sở cho lưới thức ăn.

Con người mang những loài mới đến, ảnh hưởng hệ động thực vật bản xứ. Sự đánh bắt cá và săn bắn quá mức đã làm sụt giảm mạnh số lượng nhiều loài. Ô nhiễm cùng biến đổi khí hậu đều đang đe doạ đến môi trường. Hệ thống Hiệp ước châu Nam Cực là một hiệp ước toàn cầu nhằm đảm bảo rằng châu Nam Cực chỉ là địa điểm nghiên cứu và hạn chế hoạt động con người.

Điều kiện môi trường

Bản đồ độ cao châu Nam Cực

Chừng 98% diện tích đất liền châu Nam Cực phủ một lớp băng dày tới 4,7 kilômét (2,9 mi).[1] Những hoang mạc băng châu Nam Cực có nhiệt độ rất thấp, chịu nhiều bức xạ mặt trời, và cực kỳ khô.[2] Lượng giáng thuỷ ít ỏi thường có dạng tuyết, chỉ rơi trên một dải duyên hải rộng chừng 300 kilômét (186 mi), tính từ bờ biển. Có nơi hàng năm nhận chỉ 50 mm giáng thuỷ. Nhiệt độ thấp nhất từng được ghi nhận trên Trái Đất là −89,4 °C (−128,9 °F), ở trạm Vostok trên cao nguyên Nam Cực.[1] Sinh vật sống sót được trên châu Nam Cực thường là sinh vật ái cực.[2]

Vùng nội địa khô trái ngược với BĐNC và CĐCCNC. Nếu so sánh, khí hậu BĐNC dịu hơn hẳn; có nơi trên bán đảo nhận lượng giáng thuỷ (có cả mưa) tới 900 mm (35,4 in) mỗi năm. Bắc BĐNC là khu vực duy nhất trên đất liền châu Nam Cực mà nhiệt độ đạt trên 0 °C (32 °F) vào mùa hè.[1] CĐCCNC ấm áp hơn, nhiều nước lỏng hơn, nên cũng dồi dào sự sống hơn.[3]

Nhiệt độ bề mặt Nam Băng Dương biến thiên không đáng kể, dao động từ 1 °C (33,8 °F) đến 1,8 °C (35,2 °F).[4] Vào mùa hè, băng biển phủ lên 4.000.000 kilômét vuông (1.500.000 dặm vuông Anh) mặt biển.[5] Thềm lục địa quanh châu Nam Cực rộng 60 kilômét (37 mi) - 240 kilômét (149 mi). Độ sâu đáy biển tại khu vực này là 50 mét (164 ft) - 800 mét (2.625 ft), bình quân 500 mét (1.640 ft). Thềm lục địa tiếp nối với đồng bằng biển thẳm sâu 3.500 mét (11.483 ft) - 5.000 mét (16.404 ft). Ở đây, 90% nền biển là trầm tích mềm, chẳng hạn như cát, bùn, sỏi.[6]

Hệ động vật

Euphausia superba là một loài chủ chốt, giúp cấu thành lưới thức ăn khu vực châu Nam Cực.

Hệ động vật đa dạng về kích thước, từ cỡ nhữ ốc biển, giun, hải sâm đến cá voi. Động vật lớn thường di trú giữa hai vùng cực, còn động vật nhỏ lan rộng nhờ dòng biển.[7] Động vật châu Nam Cực thích nghi để tránh mất nhiệt, thông qua cấu trúc như lớp lông chịu gió hay mỡ dưới da.[8]

Hoang mạc lạnh châu Nam Cực có hệ động vật nghèo nàn bậc nhất thế giới. Động vật có xương sống chỉ sống trên BĐNC và CĐCCNC, và cả ở đó số loài cũng ít ỏi.[9] Châu Nam Cực (tính cả CĐCCNC) không có loài động vật có vú, bò sát, lưỡng cư sống trên cạn bản xứ nào. Hoạt động của con người đã đem đến vài loài ngoại lai như chuột nhắt, chuột cống, gà, thỏ, mèo, heo, cừu, bò, tuần lộc (đảo Nam Georgia), cùng nhiều loài cá.[9] Động vật không xương sống, chẳng hạn bọ cánh cứng, cũng được con người mang đến.[10]

Quần xã động vật nơi đáy nước đa dạng và dày đặc hơn, với trường hợp ghi nhận tới 155.000 cá thể động vật trên 1 mét vuông (10,8 foot vuông). Do môi trường nơi nền biển hao hao nhau khắp miền Nam Cực, có hơn trăm loài mà đâu đâu trong vùng bờ biển châu Nam Cực cũng có mặt; đây là sự lan rộng hiếm thấy đối với cộng đồng sinh vật lớn. Những trường hợp loài khổng lồ biển sâu (tức trường hợp một loài động vật to hơn nhiều so với loài họ hàng sống chỗ nước ấm hơn) có thể được ghi nhận trong vùng nước châu Nam Cực.[6][11][12] Sự khổng lồ này có lẽ là do nước lạnh, giàu ôxy, đi kèm với tốc độ trao đổi chất thấp trong môi trường lạnh lẽo.[11][12]

So với những vùng biển khác, Nam Băng Dương có khá ít họ cá.[13] Họ giàu về số loài nhất là Liparidae, rồi đến Nototheniidae[14]Zoarcidae. Ba họ này chiếm xấp xỉ 910 trên tổng số chừng 320 loài cá Nam Băng Dương đã mô tả. Hơn nữa, vẫn còn hàng chục loài chưa mô tả, đa phần thuộc về họ Liparidae. Nếu chỉ tính cá ở thềm lục địa và dốc biển, có hơn 220 loài với Nototheniidae chiếm số đông, cả về số loài (hơn 100) lẫn sinh khối (trên 90%).[13] Liparidae spp. và Zoarcidae spp. sống nơi nước sâu là chính, còn Nototheniidae spp. ưa chỗ nước nông.[14][15] Ngoài ra, ở Nam Băng Dương cũng có mặt các họ sau: Myxinidae, Petromyzontidae, Rajidae, Carapidae, Moridae, Muraenolepididae, Gadidae, Congiopodidae, Bathylutichthyidae, Tripterygiidae, Achiropsettidae. 90% loài cá sống trong vùng hội tụ châu Nam Cực là loài đặc hữu.[13]

Nototheniidae

Họ Nototheniidae nằm trong phân bộ Notothenioidei. Phân bộ này gồm nhiều loài có protein chống đông trong máu và mô, cho phép chúng sống trong vùng nước nhiệt độ dưới 0 °C (32 °F) một chút.[16][17] Vài loài Liparidae và Zoarcidae cũng có protein chống đông.[18][19]

Hai loài trong chi Dissostichus (D. mawsoniD. eleginoides) chắc chắn là hai loài cá lớn nhất Nam Băng Dương. Hai loài này sống trên nền biển, từ nơi nước khá nông đến chỗ sâu 3.000 m (9.800 ft), đạt chiều dài đến 2 m (6,6 ft), nặng 100 kg (220 lb), tuổi thọ đến 45 năm.[16][20] D. mawsoni sống gần bờ trong khi D. eleginoides ưa vùng nước cận châu Nam Cực ấm áp hơn. Hai loài này là cá thương mại, song việc đánh bắt quá mức đang ảnh hưởng đến số lượng của chúng.[16]

Chim

Diomedea exulans trên đảo Nam Georgia

Những bờ biển đầy đá sỏi trên đất liền châu Nam Cực và những hòn đảo ngoài khơi là nơi xây tổ cho 100 triệu cá thể chim mỗi mùa xuân. Số này gồm một số loài hải âu mày đen, mòng biển và nhàn.[21] Anthus antarcticus trong họ Chìa vôi là loài đặc hữu đảo Nam Georgia cùng những đảo lân cận.

Chim cánh cụt hầu như chỉ sống trên bán cầu nam (ngoại lệ duy nhất là chim cánh cụt Galápagos sống ngay trên đường xích đạo). Bốn trong số 18 loài chim cánh cụt sống, sinh đẻ trên đất liền châu Nam Cực và các đảo ven bờ. Bốn loài khác sống trên CĐCCNC.[22] Chim cánh cụt hoàng đế là loài động vật duy nhất sinh sản trên đất liền châu Nam Cực vào mùa đông.[8]

Nguồn tham khảo

  1. ^ a b c Australian Antarctic Division. “Plants”. Government of Australia. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2013. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  2. ^ a b Selbmann, L; de Hoog, G S; Mazzaglia, A; Friedmann, E I; Onofri, S (2005). “Fungi at the edge of life: cryptoendolithic black fungi from Antarctic desert” (PDF). Studies in Mycology. 51: 1–32.
  3. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên BASplants
  4. ^ Australian Antarctic Division. “Seals and sea lions”. Government of Australia. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2013. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  5. ^ Australian Antarctic Division. “Pack-ice seals”. Government of Australia. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2013. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  6. ^ a b Australian Antarctic Division. “Seabed (benthic) communities”. Government of Australia. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2013. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  7. ^ Kinver, Mark (15 tháng 2 năm 2009). “Ice oceans 'are not poles apart'. BBC News. British Broadcasting Corporation. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2011.
  8. ^ a b Australian Antarctic Division. “Adapting to the cold”. Government of Australia. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2013.
  9. ^ a b British Antarctic Survey. “Land Animals of Antarctica”. Natural Environment Research Council. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2013.
  10. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên AADinvertebrates
  11. ^ a b “Polar Gigantism in Antarctica”. Polar Treca. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2017.
  12. ^ a b Chapelle, G.; L.S. Peck, J.T. (1999). “Polar gigantism dictated by oxygen availability”. Nature. 399 (6732): 114–115. Bibcode:1999Natur.399..114C. doi:10.1038/20099.
  13. ^ a b c Eastman, J.T. (2005). “The nature of the diversity of Antarctic fishes”. Polar Biol. 28 (2): 93–107. doi:10.1007/s00300-004-0667-4.
  14. ^ a b Eastman, J.T.; M.J. Lannoo (1998). “Morphology of the Brain and Sense Organs in the Snailfish Paraliparis devriesi: Neural Convergence and Sensory Compensation on the Antarctic Shelf”. Journal of Morphology. 237 (3): 213–236. doi:10.1002/(sici)1097-4687(199809)237:3<213::aid-jmor2>3.0.co;2-#.
  15. ^ British Antarctic Survey. “Fish and Squid”. Natural Environment Research Council. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 10 năm 2012.
  16. ^ a b c Australian Antarctic Division. “Fish”. Government of Australia. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2013.
  17. ^ Cheng, C.-H.C.; L. Chen; T.J. Near; Y. Jin (2003). “Functional Antifreeze Glycoprotein Genes in Temperate-Water New Zealand Nototheniid Fish Infer an Antarctic Evolutionary Origin”. Mol. Biol. Evol. 20 (11): 1897–1908. doi:10.1093/molbev/msg208. PMID 12885956.
  18. ^ Jung, A.; P. Johnson; J.T. Eastman; A.L. Devries (1995). “Protein content and freezing avoidance properties of the subdermal extracellular matrix and serum of the Antarctic snailfish, Paraliparis devriesi”. Fish Physiol Biochem. 14 (1): 71–80. doi:10.1007/BF00004292. PMID 24197273.
  19. ^ Stauffer, L.B. (12 tháng 1 năm 2011). “Researchers show how one gene becomes two (with different functions)”. Illinois News Bureau. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2017.
  20. ^ Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Các loài trong Dissostichus trên FishBase. Phiên bản tháng December năm 2017.
  21. ^ Australian Antarctic Division. “Flying Birds”. Government of Australia. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2013.
  22. ^ Australian Antarctic Division. “Penguins”. Government of Australia. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2013.

Tài liệu thêm

  • Harris, C M; Lorenz, K; Fishpool, L D C; Lascelles, B; Cooper, J; Coria, N R; Croxall, J P; Emmerson, L M; Fijn, R C; Fraser, W L; Jouventin, P; LaRue, M A; Le Maho, Y; Lynch, H J; Naveen, R; Patterson-Fraser, D L; Peter, H-U; Poncet, S; Phillips, R A; Southwell, C J; van Franeker, J A; Weimerskirch, H; Wienecke, B; Woehler, E J (2015). “Important Bird Areas in Antarctica” (PDF). BirdLife International and Environmental Research & Assessment: 1–301. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)